- Các nhân tố ảnh hưởng tới tổ chức công tác kế toán tại các doanh nghiệp ngành xây dựng trên địa bàn thành phố Biên Hoà - tỉnh Đồng Nai
- Khái quát về kế toán điều tra và sự cần thiết nghiên cứu về kế toán điều tra
- Ảnh hưởng từ cách mạng công nghiệp 4.0 đến thông tin kế toán trong doanh nghiệp
- Doanh thu kế toán và doanh thu tính thuế theo chương trình dành cho khách hàng truyền thống
- Một số vấn đề về Thuế đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực nông sản, hải sản
Luật Quản lý Thuế (sửa đổi). Những xung đột Luật pháp cần tránh
Dự án Luật Quản lý thuế (sửa đổi, bổ sung) được trình ra Quốc hội khóa XIV, tại kỳ họp thứ 6. Có thể nhận thấy, qua nhiều lần chỉnh sửa, trên cơ sở tiếp thu ý kiến rộng rãi của các ban ngành, các tổ chức nghề nghiệp và nhân dân, dự án Luật đã có sự đổi mới và khoa học, thể hiện được tinh thần hướng đến mục tiêu thực hiện chính sách thuế minh bạch, đơn giản, khoa học, phù hợp thông lệ quốc tế.
Tuy nhiên, một số quy định của Luật Quản lý thuế còn chồng chéo, không phù hợp với các quy định về Luật đã được quốc hội thông qua trước đó. Thậm chí có những quy định của Luật Quản lý thuế xung đột với các Luật khác, cụ thể là Luật Kế toán và Luật Kiểm toán Nhà nước.
Đối với Luật Kế toán
Tại Điểm 1c, Điều 106 có quy định Đại lý thuế được cung cấp: “Dịch vụ kế toán cho Doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ”. Quy định này không thể chấp nhận được.
Trước hết: về mối quan hệ giữa các Luật trong hệ thống Pháp luật Việt Nam hiện hành, dịch vụ kế toán là một loại dịch vụ có điều kiện đã được quy định một chương riêng (Chương IV) tại Luật Kế toán số 88/2015/QH13 đã được Quốc hội Khóa XIII thông qua. Bởi vậy, nếu quy định như Điểm 1c, Điều 106 tại Luật Quản lý thuế sẽ xung đột với các quy định tại chương IV của Luật Kế toán số 88/2015/QH13, phá vỡ mối quan hệ giữa các Luật và tính thống nhất trong hệ thống pháp luật của Việt Nam.
Thứ hai: kế toán là một nghề mang tính chuyên nghiệp được pháp luật thừa nhận, dịch vụ kế toán là hoạt động kinh doanh có điều kiện, không chỉ ở Việt Nam mà là thông lệ phổ biến từ lâu trên thế giới. Hoạt động kế toán được điều chỉnh và chế tài bởi một hệ thống các văn bản nghề nghiệp (nguyên tắc và chuẩn mực kế toán) và đạo đức nghề nghiệp (quy chế, chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp) cho tất cả những người làm nghề và hành nghề kế toán để đảm bảo cung cấp một hệ thống thông tin kinh tế tài chính tin cậy, minh bạch, khách quan cho các nhà quản lý, các nhà đầu tư. Vì vậy, các văn bản quy phạm pháp luật về thuế chỉ quy định về thuế và các quy định có tính tuân thủ các pháp luật khác, chứ không thể và không nên có những quy định về kế toán.
Nếu pháp luật về thuế, luật về quản lý thuế quy định về kế toán, điều đó thể hiện sự không minh bạch, dễ tạo cơ hội cho lợi ích nhóm trong quy định các văn bản pháp luật, trái với chủ trương xây dựng và vận hành Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, cũng như tạo xung đột pháp lý giữa các Luật. Kế toán là một trong những căn cứ quan trọng để tính và xác định số thuế phải nộp, đã nộp cũng như cung cấp các căn cứ để kiểm tra thuế. Không thể vừa tạo lập thông tin làm căn cứ tính thuế, lại trực tiếp tính thuế và kiểm tra việc chấp hành nghĩa vụ nộp thuế. Đây là hai loại hình nghiệp vụ, là hai hệ công cụ có tính độc lập nhất định trong hệ thống tài chính.
Thứ ba: ở Việt Nam, dịch vụ kế toán là loại hình kinh doanh có điều kiện theo Luật định. Luật Kế toán số 88/2015/QH13, quy định về cung cấp dịch vụ kế toán có rất nhiều điểm khác so với quy định về điều kiện cung cấp dịch vụ đại lý thuế trong dự thảo Luật Quản lý thuế này, Theo quy định của Luật Kế toán: Đối tượng được dự thi để lấy chứng chỉ kế toán viên (KTV), để đăng ký cung cấp dịch vụ kế toán phải là những người được đào tạo về tài chính - kế toán. Để hành nghề kế toán phải là các cử nhân trở lên thuộc chuyên ngành kế toán, kiểm toán, tài chính hoặc chuyên ngành khác nhưng phải được đào tạo về kế toán, kiểm toán, tài chính với dung lượng trên 7% số tín chỉ trong chương trình đào tạo cử nhân. Những người cung cấp dịch vụ kế toán phải có kinh nghiệm thực tế làm kế toán, kiểm toán từ 36 tháng. Về môn thi và nội dung thi chứng chỉ KTV cũng khác so với các môn thi lấy chứng chỉ đại lý thuế, cụ thể các KTV phải thi 4 môn, gồm: Pháp luật Kinh tế và Luật Doanh nghiệp; Kế toán tài chính và quản trị nâng cao; Tài chính và quản trị tài chính nâng cao; Thuế và quản lý thuế nâng cao. Nội dung thi KTV là phải vừa bao gồm lý thuyết vừa thực hành nâng cao. Các KTV, sau khi có chứng chỉ KTV và được đăng ký hành nghề phải thường xuyên cập nhật kiến thức hàng năm, phải tham gia các lớp học cập nhật kiến thức mới 40h/năm, phải chịu sự kiểm soát chất lượng dịch vụ, chất lượng hành nghề của cơ quan quản lý nhà nước (3-5 năm/lần) và chịu sự kiểm soán thường xuyên về đạo đức nghề nghiệp của tổ chức nghề nghiệp.
Thứ tư: về tác động xã hội: Nếu Luật Quản lý thuế quy định người hành nghề đại lý thuế được cung cấp dịch vụ kế toán (dù chỉ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ hay doanh nghiệp siêu nhỏ) sẽ tạo nên một tiền lệ xấu cho xã hội: “Sai làm mãi thành đúng”, làm méo mó nội dung của hệ thống pháp luật Việt Nam, tạo nên một sự cạnh tranh không lành mạnh trong nền kinh tế và có tác động tiêu cực đến các ngành nghề có liên quan mà cụ thể là dịch vụ kế toán đã hình thành và được Bộ Tài chính tạo lập, phát triển hơn 10 năm nay.
Trong thực tế, pháp luật cũng không cấm các công ty dịch vụ đại lý thuế cung cấp dịch vụ kế toán, nhưng đại lý thuế chỉ được cung cấp dịch vụ kế toán khi họ đáp ứng đầy đủ các điều kiện của dịch vụ kế toán quy định tại Luật Kế toán, cũng như các công ty dịch vụ kế toán và các KTV muốn cung cấp các dịch vụ về thuế phải đáp ứng đầy đủ các quy định của Luật Quản lý thuế, phải có chứng chỉ Đại lý thuế và phải đăng ký với cơ quan thuế theo quy định của pháp luật.
Đối với Luật Kiểm toán Nhà nước
Thứ nhất: Luật Kiểm toán Nhà nước 2015 đã quy định rất rõ về chức năng của Kiểm toán Nhà nước là kiểm tra, đánh giá và xác nhận tài sản công, tài chính công. Tài chính công được hiểu là tài chính Nhà nước, trong đó có ngân sách Nhà nước. Nguồn thu của Ngân sách Nhà nước chủ yếu là từ thuế, phí và lệ phí. Nộp thuế, phí, lệ phí là nghĩa vụ của toàn dân, thu thuế, quản lý thuế là trách nhiệm của cơ quan Thuế và các cơ quan, các cấp chính quyền trong bộ máy quản lý nhà nước. Kiểm toán Nhà nước không chỉ có trách nhiệm kiểm tra, đánh giá và xác nhận tình hình thu thuế mà phải kiểm tra cả việc nộp thuế, quản lý thuế và việc tuân thủ luật pháp về thuế và thực hiện các chính sách thuế. Cần có sự hiểu đúng, đủ phạm vi, đối tượng của Kiểm toán Nhà nước trong hoạt động quản lý thuế, từ ban hành chính sách thuế, từ việc nộp thuế, đến việc thu thuế, quản lý và sử dụng tiền thuế. Vấn đề này quy định trong Luật Quản lý Thuế (Điều 23) là chưa ổn và chưa thỏa đáng. Cần được quy định lại đúng theo tinh thần Hiến pháp 2013 (Điều 118) và Luật Kiểm toán Nhà nước 2015.
Thứ hai: Kiểm toán Nhà nước là cơ quan kiểm tra tài chính do Quốc hội thành lập (ở các nước thường gọi là kiểm toán tối cao, hoặc kiểm tra tối cao, hoặc tòa án về tài khoản của chính phủ). Ý kiến của kiểm toán có giá trị, dựa trên những bằng chứng pháp lý đã được đánh giá. Vì vậy, ý kiến hoặc các kiến nghị của Kiểm toán Nhà nước phải được tôn trọng, được chấp hành. Nếu chưa thỏa đáng, chưa đồng tình có quyền giải trình, có quyền đưa ra Hội đồng kiểm toán (thành lập và hoạt động theo Luật định). Vì vậy, cần phải cân nhắc các quy định trong Luật Quản lý thuế về quyền và trách nhiệm quyết định, khi có sự khác nhau trong ý kiến của cơ quan Thuế và Kiểm toán Nhà nước.
Hy vọng, Luật Quản lý Thuế được ban hành sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật thống nhất của Việt Nam, tránh những xung đột không cần thiết trong hệ thống pháp luật của Việt Nam. /.
Theo Tạp chí Kế toán và Kiểm toán của Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam(VAA) PGS.TS Đặng Văn Thanh * Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam