- Ghi nhận doanh thu hàng khuyến mại theo Thông tư số 200/2014/TT-BTC
- Hoàn thiện quy định về kế toán các giao dịch bằng ngoại tệ
- Kế toán tài sản cố định trên cơ sở kế toán dồn tích đầy đủ
- Chi phí môi trường theo hướng dẫn của Liên đoàn Kế toán Quốc tế (IFAC) và ủy ban Phát triển bền vững của Liên hiệp quốc (UNDSN)
- Chuẩn mực kế toán Việt Nam về giá trị hợp lý và công cụ tài chính
Kế toán trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp
|
Doanh nghiệp (DN) và xã hội có mối quan hệ hai chiều, mật thiết với nhau. DN nhận các lợi ích từ xã hội, được xã hội tạo các điều kiện cần thiết để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh (SXKD), do đó cần thực hiện các trách nhiệm đối với xã hội. Việc thu thập và cung cấp thông tin liên quan đến mối quan hệ này, đã phát sinh khái niệm kế toán trách nhiệm xã hội (TNXH) của DN. Đây không phải là vấn đề thực sự mới với thế giới nhưng chưa được nghiên cứu, xem xét một cách đầy đủ, có hệ thống ở Việt Nam.
Bài viết này, giúp nhận biết các TNXH của DN, những hướng dẫn quốc tế về vấn đề này. Từ đó, đề xuất một số gợi ý cho việc nghiên cứu và triển khai kế toán TNXH của DN ở Việt Nam.
DN là một chủ thể của nền kinh tế, tạo ra phần lớn của cải vật chất cho xã hội. Để có thể làm được điều đó, DN đã khai thác các nguồn lực tự nhiên và sử dụng các nguồn lực của xã hội. Các yếu tố như: Môi trường pháp lý ổn định, hệ thống cơ sở hạ tầng, thị trường, lực lượng lao động,... là những điều kiện cần thiết cho hoạt động SXKD của DN. Nhờ những đóng góp của xã hội mà DN mới tồn tại và phát triển được. Như vậy, xã hội là điều kiện cần và đủ cho hoạt động kinh doanh của DN. Trong khi đó, phần lớn các DN luôn coi trọng việc phát triển kinh tế hơn là đảm bảo sức khỏe của người dân và môi trường sống trong lành. Chính những hoạt động kinh tế với quy mô càng lớn, sẽ gây ra những ảnh hưởng đáng kể đến môi trường, xã hội của mỗi quốc gia cũng như gây những tác động đến toàn cầu. Do vậy, các DN là đối tượng quan trọng của các hoạt động kinh tế, cần phải kết hợp chặt chẽ hoạt động kinh doanh với hoạt động bảo vệ môi trường (BVMT), ổn định xã hội để tạo động lực mạnh mẽ cho phát triển.
Kế toán TNXH của DN là một công cụ đánh giá những nỗ lực BVMT và đảm bảo sự ổn định xã hội của DN, là phương pháp quản lý, phân tích để nâng cao hiệu quả của những giải pháp BVMT, ổn định xã hội của DN. Muốn vậy, các DN cần được tiếp cận với kế toán TNXH, để từng bước đem lại những đóng góp tích cực cho phát triển một nền kinh tế xanh. Là một nước đang phát triển, Việt Nam hiện tại đang phải đối mặt với rất nhiều vấn đề về khai thác quá mức nguồn tài nguyên thiên nhiên, tàn phá môi trường, mất cân bằng xã hội,... nên việc tìm hiểu, nghiên cứu về kế toán TNXH của DN là hết sức cần thiết.
Trách nhiệm xã hội của DN
Ban đầu, TNXH của DN thường được thể hiện một cách rời rạc thông qua một số các hoạt động từ thiện của các DN đơn lẻ. Các chủ DN, người chịu trách nhiệm điều hành và quản lý hoạt động kinh doanh cũng là người quyết định thực hiện các hoạt động này. Từ những năm 1930, mối quan tâm đến TNXH đã bắt đầu được đề cập đến trong hai tác phẩm “Chức năng của các nhà điều hành” (The Functions of the Executive) của NXB Chester Barnard năm 1938 và “Đo lường hiệu quả xã hội của DN” (Measurement of the Social Performance of Business) của Theodore Krep năm 1940. Sang những năm 1950, của thế kỷ XX, khái niệm TNXH được chính thức ra đời, đánh dấu bởi cuốn sách “TNXH của doanh nhân” (Social Responsibilities of the Businessman) của Howard Bowen. Cuốn sách nhằm mục đích tuyên truyền và kêu gọi các doanh nhân không làm tổn hại đến quyền và lợi ích của người khác, kêu gọi các hoạt động từ thiện, nhằm bù đắp những thiệt hại mà DN gây ra cho xã hội. Trong cuốn sách này, ông đặt ra vấn đề “Những trách nhiệm gì đối với xã hội mà người làm kinh doanh cho là hợp lý?” Ông cũng đưa ra một định nghĩa ban đầu về TNXH là “Trách nhiệp xã hội của DN đề cập đến nghĩa vụ của DN để theo đuổi các chính sách, ra quyết định kinh doanh hoặc thực hiện các hoạt động để đạt được mục tiêu và mang lại giá trị cho xã hội”.
Đến đầu những năm 1970, Keith Davis đưa ra vấn đề Luật sắt của trách nhiệm. Trong đó cho rằng, "TNXH của các doanh nhân cần phải tương xứng với sức mạnh xã hội của họ". Ông đề xuất vấn đề: xã hội và DN cần có quan hệ hai chiều, xã hội có quyền yêu cầu DN thực hiện trách nhiệm đổi lại DN cũng cần cân đối chi phí và lợi ích, xem xét những ảnh hưởng tới xã hội trước khi tiến hành các hoạt động SXKD.
Vấn đề TNXH của DN dần dần càng được làm rõ hơn, theo các khía cạnh của trách nhiệm. Archie Carroll trong cuốn sách “Kinh doanh và Xã hội: Đạo đức, Bền vững và Quản trị các bên liên quan” (Business and Society: Ethics, Sustainability and Stakeholder Management) đã đưa ra khái niệm về TNXH của DN “là tất cả các vấn đề kinh tế, pháp lý, đạo đức và những lĩnh vực khác mà xã hội trông đợi ở DN trong mỗi thời điểm nhất định”. Mô hình Archie đưa ra khá toàn diện và có tính khả thi cao, khi xây dựng một kim tự tháp có tầng đáy là trách nhiệm kinh tế của DN, bởi lợi nhuận chính là mục tiêu tồn tại của DN. Tầng tiếp theo của kim tự tháp thể hiện trách nhiệm pháp lý của DN, bao gồm các cam kết của DN với xã hội về tuân thủ luật pháp. Trách nhiệm kinh tế và trách nhiệm pháp lý, là hai bộ phận không thể thiếu của TNXH DN. ở mức độ trách nhiệm cao hơn, DN cần thực hiện các cam kết khác ngoài luật, cụ thể là các trách nhiệm đạo đức và trách nhiệm từ thiện được thực hiện một cách tự nguyện.
Như vậy, TNXH của DN hiện đang là mối quan tâm hàng đầu của nhiều DN trên thế giới. Trong đó, các nhà quản trị quan tâm đến các tác động xã hội và môi trường của hoạt động kinh doanh, bởi vì DN muốn phát triển bền vững cần giải quyết các vấn đề ảnh hưởng đến cộng đồng, từ đó, tạo ra giá trị cho các cổ đông. Gần đây, các chuyên gia của Ngân hàng thế giới đã đưa ra khái niệm “TNXH DN được hiểu là cam kết của DN đóng góp cho việc phát triển kinh tế bền vững, thông qua việc tuân thủ chuẩn mực về BVMT, bình đẳng về giới, an toàn lao động, quyền lợi lao động, trả lương công bằng, đào tạo và phát triển nhân viên, phát triển cộng đồng,... theo cách có lợi cho cả DN cũng như phát triển chung của xã hội”. Như vậy, các DN có thể thực hiện TNXH của mình, bằng cách đạt một số chứng chỉ quốc tế hoặc áp dụng những bộ quy tắc ứng xử (Code of Conduct - COC). TNXH là nghĩa vụ mà một DN phải thực hiện đối với xã hội. Có trách nhiệm với xã hội là tăng đến mức tối đa các tác dụng tích cực và giảm tối thiểu các hậu quả tiêu cực đối với xã hội.
Như vậy, có thể thấy, TNXH DN (Corporate Social Responsibility - CSR) là thuật ngữ được sử dụng khi DN tích hợp mối quan tâm đến xã hội và môi trường vào các hoạt động kinh doanh của DN và tương tác với các bên liên quan (stakeholders) trên cơ sở tự nguyện (Green Paper, 2001). Từ đó, kêu gọi các DN theo đuổi mục tiêu của mình, bằng cách chuyển hướng tư duy chiến lược gắn liền với các bên liên quan.
Các hướng dẫn quốc tế về TNXH của DN
Ngày nay, khái niệm TNXH của DN đã càng trở nên gần gũi với cộng đồng DN. Tuy nhiên, để thực hiện các cam kết của DN với xã hội, có nhiều bộ quy tắc ứng xử giúp DN nhận thức đầy đủ hơn về trách nhiệm của mình cũng như tạo sự thống nhất trong quá trình thực hiện. Các hướng dẫn quốc tế về TNXH của DN có thể kể đến như:
Tiêu chuẩn ISO 26000: Được Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ban hành năm 2010, về hướng dẫn TNXH. Đây là một bản hướng dẫn hài hòa và mang tính toàn cầu cho mọi tổ chức, DN, tại các nước phát triển, đang phát triển và các nền kinh tế chuyển đổi. ISO 26000 bao gồm các hướng dẫn tự nguyện, dựa trên sự đồng thuận quốc tế của các chuyên gia thuộc các nhóm ngành chính và khuyến khích việc thực hành trách nhiệm một cách rộng khắp. Cơ sở của ISO 26000 là ý tưởng hoạt động kinh doanh bền vững, không chỉ bao gồm việc cung cấp sản phẩm, dịch vụ tốt cho khách hàng mà còn bao gồm việc không gây nguy hại đến môi trường và có trách nhiệm với xã hội. Nội dung chính của ISO 26000 gồm các yếu tố thuộc hai nhóm trách nhiệm chính sau:
- Nhóm trách nhiệm bên ngoài của DN gồm các yếu tố: Môi trường, Hòa hợp phát triển cộng đồng, Thực hành kinh doanh trung thực và Khách hàng.
- Nhóm trách nhiệm bên trong của DN gồm Người lao động, Điều hành DN và quyền con người.
Giữa hai nhóm trách nhiệm và các yếu tố thuộc mỗi nhóm, không thể nhấn mạnh nhóm nào hay yếu tố nào là quan trọng hơn. Vì mục tiêu của ISO 26000 là thực hiện TNXH của DN, không chỉ làm cho DN phát triển bền vững, mà còn góp phần vào sự phát triển bền vững chung của toàn xã hội.
Tiêu chuẩn ISO 14001: Là bộ tiêu chuẩn về hệ thống quản lý môi trường (EMS) đề xuất các yêu cầu về quản lý môi trường cần có của một DN. Mục đích của bộ tiêu chuẩn này là giúp các DN BVMT, ngăn ngừa ô nhiễm và cải tiến liên tục hệ thống quản lý môi trường của mình. Bộ tiêu chuẩn ISO 14001: 2004 được ban hành vào 15/11/2004, thay thế cho tiêu chuẩn ISO 14001: 1996 khi phiên bản này hết hạn vào tháng 05/2006. Tiêu chuẩn ISO 14001 được áp dụng cho tất cả các DN không phân biệt quy mô, loại hình hoạt động hay sản phẩm.
Áp dụng tiêu chuẩn ISO 14001, DN cần chứng tỏ đã thực hiện các biện pháp để bảo vệ và ngăn ngừa ô nhiễm như: Tự công bố DN của mình đã áp dụng phù hợp với tiêu chuẩn ISO 14001; Khách hàng hoặc các bên liên quan đánh giá sự phù hợp với tiêu chuẩn ISO 14001 hoặc mời tổ chức độc lập đánh giá chứng nhận sự phù hợp với hệ thống quản lý môi trường ISO 14001.
Để thực hiện xây dựng hệ thống quản lý môi trường, ISO 14001 đưa ra các hướng dẫn cụ thể. Thông qua các bước tiến hành như vậy, DN có thể tự chứng minh đã đáp ứng được các yêu cầu tuân thủ pháp luật về BVMT, thỏa mãn yêu cầu của các bên liên quan về vấn đề môi trường và phát triển bền vững.
Bộ nguyên tắc CERES của Liên minh các nền kinh tế có trách nhiệm với môi trường (Coalition for Environmentally Responsible Economies): Ra đời từ đầu năm 1990, CERES đã thiết kế Sáng kiến báo cáo toàn cầu, yêu cầu các công ty ủng hộ cam kết tuân thủ các nguyên tắc bền vững về môi trường. Đến nay, các sáng kiến này đã trở thành chuẩn mực vàng quốc tế cho việc báo cáo của các DN về tính bền vững. Các nội dung chính của Bộ nguyên tắc bao gồm: Bảo vệ sinh quyển, Sử dụng tài nguyên thiên nhiên bền vững, Giảm thiểu và loại bỏ chất thải, Bảo tồn năng lượng, Giảm thiểu rủi ro, Cung cấp các sản phẩm và dịch vụ an toàn, Phục hồi và tái tạo môi trường, Công bố thông tin minh bạch, Cam kết của ban quản trị về việc thực hiện và Đánh giá và báo cáo hoạt động. Có thể thấy, Bộ nguyên tắc này nhấn mạnh vào các hoạt động vì môi trường với mục tiêu liên tục cải thiện các khía cạnh liên quan đến môi trường, nhằm đạt được một tương lai bền vững.
Tiêu chuẩn quốc tế SA 8000 (Social Accountability International): Được Hội đồng Công nhận Quyền ưu tiên Kinh tế thuộc Hội đồng Ưu tiên Kinh tế (CEP) xây dựng, dựa trên các Công ước của Tổ chức lao động Quốc tế, Công ước của Liên Hiệp Quốc về Quyền Trẻ em và Tuyên bố Toàn cầu về Nhân quyền, ban hành năm 1997 và liên tục được bổ sung hoàn thiện đến nay. Mục đích cơ bản của SA 8000 là bảo vệ các quyền cơ bản của người lao động, bằng cách cải thiện điều kiện làm việc trên toàn cầu. Vì thế, TNXH trong tiêu chuẩn SA 8000 tập trung đề cập đến điều kiện làm việc và các vấn đề liên quan. Tiêu chuẩn SA8000 giúp nâng cao nhận thức của DN về cải thiện điều kiện sống và làm việc. Thông qua những hành động đó, DN có thể đồng thời đạt được mục tiêu kinh tế và mục tiêu xã hội.
Có thể thấy, các bộ quy tắc, tiêu chuẩn mang tính quốc tế trên đây có sự đồng thuận cao về TNXH của DN. Để tồn tại và phát triển trong một xã hội bền vững, TNXH của DN đòi hỏi đáp ứng được cả ba khía cạnh: Trách nhiệm kinh tế nhằm đem lại lợi ích cho các cổ đông, trách nhiệm BVMT và trách nhiệm đối với các thực thể trong xã hội.
Sự hình thành kế toán TNXH của DN trên thế giới
Sự thay đổi trong cách tiếp cận từ tiếp cận theo Lý thuyết cổ đông (Shareholders Theory) sang cách tiếp cận thông tin theo Lý thuyết Người có liên quan (Stakeholders Theory) đã thúc đẩy sự phát triển của kế toán TNXH với việc nhấn mạnh các thông tin phi tài chính. Theo Freeman (1997), lý thuyết các bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan có nhiều ứng dụng, trong đó có ứng dụng vào lĩnh vực kế toán cho rằng, thành công của công ty phụ thuộc vào sự hợp tác của các bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan. Bởi vì, họ cung cấp nguồn lực hữu hình hoặc vô hình, để đảm bảo sự tồn tại của bất kỳ công ty nào, các nguồn lực đó có thể là nguồn lực tài chính (cổ đông), môi trường hoạt động và dịch vụ công (cơ quan chính phủ), sức lao động (nhân viên) … Vì vậy, công ty có trách nhiệm giải trình, cung cấp thông tin giải thích về hoạt động kinh doanh của công ty cho các bên có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, thay vì chỉ cung cấp thông tin cho chủ sở hữu.
Nghiên cứu của Mathews (1993) chỉ ra rằng, kế toán TNXH là việc công bố thông tin tài chính và thông tin phi tài chính, thông tin định tính và thông tin định lượng về các hoạt động của một tổ chức, có ảnh hưởng đến nhiều đối tượng có liên quan. Theo đó, hệ thống kế toán TNXH cung cấp thông tin cho các đối tượng sử dụng khác nhau bao gồm: Người lao động, nhà quản trị, chủ sở hữu, khách hàng, nhà cung cấp, nhà tài trợ, cộng đồng, cơ quan Chính phủ, tổ chức chính trị và Hiệp hội thương mại (Lý thuyết người có liên quan).
Một nghiên cứu về kế toán TNXH cần phải kể đến, là nghiên cứu của Sajad Gholami và các cộng sự (2012) “Kế toán TNXH: Từ lý thuyết đến thực tiễn” Nghiên cứu này đã chỉ ra, bên cạnh các mục tiêu về tài chính, DN cần phải chú trọng đến trách nhiệm đối với xã hội vì những hành vi phi đạo đức sẽ có ảnh hưởng lớn đến hiệu quả hoạt động của DN.
Tóm lại, các quan điểm khác nhau kể trên, đều đưa đến những điểm chung nhất về kế toán TNXH của DN bao gồm:
- Thông tin kế toán TNXH của DN phục vụ cho nhiều đối tượng khác nhau, cả đối tượng sử dụng thông tin bên trong và bên ngoài DN.
- Thông tin của kế toán TNXH của DN bao gồm cả các thông tin tài chính và phi tài chính, thông tin định tính và định lượng về kinh tế, xã hội và môi trường của các tổ chức.
Khuyến nghị về xây dựng kế toán TNXH của DN ở Việt Nam
Quan điểm phát triển trong Chiến lược phát triển kinh tế xã hội đến năm 2020, đã được Chính phủ xác định là: “Phát triển nhanh gắn liền với phát triển bền vững, là yêu cầu xuyên suốt trong Chiến lược. Phải phát triển bền vững về kinh tế, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an ninh kinh tế. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, coi chất lượng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh là ưu tiên hàng đầu, chú trọng phát triển theo chiều sâu, phát triển kinh tế tri thức. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Phát triển kinh tế -xã hội, phải luôn coi trọng bảo vệ và cải thiện môi trường, chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu. Nước ta có điều kiện phát triển nhanh và yêu cầu phát triển nhanh, cũng đang đặt ra hết sức cấp thiết. Phát triển bền vững là cơ sở để phát triển nhanh, phát triển nhanh để tạo nguồn lực cho phát triển bền vững. Phát triển nhanh và bền vững phải luôn gắn chặt với nhau trong quy hoạch, kế hoạch và chính sách phát triển kinh tế - xã hội”.
Quán triệt quan điểm trên, việc nghiên cứu, xem xét các vấn đề lý thuyết về kế toán TNXH của DN là hết sức cần thiết trong điều kiện môi trường, xã hội ở Việt Nam đang đối mặt với nhiều vấn đề phức tạp của phát triển. Do vậy, để hiện thực hóa Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam, cần xây dựng và nâng cao TNXH của DN, từ đó tăng cường nhận thức về vai trò của kế toán TNXH của DN.
Thực tế cho thấy, BVMT ổn định xã hội là nhiệm vụ cấp thiết đối với DN ở mọi quốc gia, không phân biệt quốc gia đó là phát triển hay đang phát triển. Hay nói cách khác, sự tồn tại và phát triển của các DN phải đi đôi với trách nhiệm với môi trường, xã hội. Mỗi DN cần tạo sự cân bằng giữa lợi ích kinh tế thu được với chi phí môi trường, xã hội mà DN chi trả thông qua các hành động cụ thể, nhằm ngăn chặn và giảm thiểu các tác động xấu của hoạt động kinh tế đối với môi trường, xã hội. Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, khi mà ý thức về môi trường, TNXH của người tiêu dùng đã được nâng cao cùng với sự cạnh tranh khốc liệt giữa các DN trong cùng một ngành. Nếu DN chỉ quan tâm và chú trọng vào những lợi ích trong ngắn hạn và đưa ra những chính sách và hành động có ảnh hưởng xấu đến môi trường, xã hội thì hậu quả sẽ không chỉ là những hình phạt từ các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, mà nghiêm trọng hơn là sự tẩy chay của người tiêu dùng.
Những năm gần đây, trên các trang web giới thiệu DN, nhiều công ty đã đưa ra những tuyên bố đáng chú ý về TNXH của mình. Công ty CSC, một DN tiên phong trong lĩnh vực công nghệ thông tin đã khẳng định: “Cam kết của chúng tôi xuyên suốt tất cả các khía cạnh của hoạt động kinh doanh - đó là cung cấp các dịch vụ chuyên nghiệp tuyệt vời cho khách hàng, tăng giá trị cổ đông, xây dựng một môi trường làm việc hấp dẫn, tối ưu hóa các nguồn lực hiện có, giảm chi phí hoạt động và hạn chế các tác động ảnh hưởng đến môi trường, thông qua các hoạt động Xanh. Bởi vì, nhân viên chính là hình ảnh của công ty CSC. Do đó, chúng tôi luôn hỗ trợ mạnh mẽ đội ngũ nhân viên, phát triển bản thân qua các chương trình đào tạo chuyên sâu, được tổ chức thường xuyên tại công ty”. Trong những năm qua, CSC đã triển khai nhiều hoạt động thiết thực để thực hiện các trách nhiệm của DN đối với cộng đồng, có những nỗ lực không mệt mỏi, nhằm bồi dưỡng đội ngũ nhân viên chuyên môn cao, đầy nhiệt huyết và cam kết thực hiện những trách nhiệm của DN đối với xã hội. Công ty TNHH tư vấn AC & C cũng đưa ra những cam kết như: “AC & C cam kết trở thành một phần trong xu hướng toàn cầu hóa, hướng tới hành vi kinh doanh có trách nhiệm, để tạo nên những thay đổi tích cực cho cộng đồng và môi trường. AC & C chú trọng phát triển bền vững, có trách nhiệm trong các hoạt động hỗ trợ cộng đồng, tham gia vào các sự kiện thể thao từ thiện, hiến máu nhân đạo và các hoạt động xã hội khác. AC & C cam kết giảm thiểu các hoạt động ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường. Văn phòng làm việc thiết kế và sắp xếp, để giảm thiểu tối đa năng lượng tiêu thụ cho việc chiếu sáng và điều hòa không khí. Đội ngũ nhân viên AC & C được huấn luyện xây dựng văn hóa, hạn chế tối đa việc sử dụng giấy và in ấn trong công việc,...”. Những tuyên bố này được trình bày trang trọng trên các trang web giới thiệu công ty, khẳng định sự nhận thức cao của các DN này trong vấn đề trách nhiệm của DN đối với xã hội. Tuy nhiên, những cam kết và các hoạt động hiện thực hóa cam kết chưa được các DN ghi nhận bằng công cụ của kế toán. Do đó, vấn đề tăng cường nhận thức vai trò của kế toán TNXH, từ đó có những triển khai cụ thể trong thực tiễn là hết sức cần thiết.
Kế toán TNXH của DN là vấn đề không mới đối với thế giới nhưng là vấn đề còn rất mới mẻ đối với các DN Việt Nam. Để có thể tồn tại và phát triển bền vững, các DN Việt Nam cần quan tâm nghiên cứu và từng bước xây dựng kế toán TNXH của DN./.
Tài liệu tham khảo
- Chính phủ (2011), Chiến lược phát triển kinh tế xã hội 2011-2020.
- Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO (2010), ISO 26000 Tiêu chuẩn quốc tế về TNXH.
- Tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO (2004), ISO 14001 Tiêu chuẩn về hệ thống quản lý môi trường.
- Social Accountability International (SAI), SA8000 Hệ thống tiêu chuẩn trách nhiệm giải trình xã hội.
- Bộ nguyên tắc CERES của Liên minh các nền kinh tế có trách nhiệm với môi trường (Coalition for Environmentally Responsible Economies).
- Nguyễn Ngọc Thắng, TNXH của DN, NXB Đại học Quốc gia.
- Sajad Gholami và các cộng sự (2012) “Kế toán TNXH: Từ lý thuyết đến thực tiễn”.
TS. Lê Kim Ngọc * Đại học Kinh tế Quốc dân