Kế toán quản trị môi trường – bài học kinh nghiệm cho Việt Nam


Kế toán quản trị môi trường (Environmental Management Accounting gọi tắt là EMA) là một bộ phận của hệ thống kế toán doanh nghiệp (DN) và là công cụ quản lý không thể thiếu trong DN giúp các nhà quản trị kiểm soát chi phí, lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu và đầu tư hiệu quả đáp ứng được cả tiêu chuẩn kinh tế và môi trường. EMA đã được áp dụng tại nhiều quốc gia trên thế giới chủ yếu là các quốc gia phát triển. Tại Nhật Bản, EMA đã được áp dụng trong các DN từ năm 1999 giúp cho các DN gặt hái được nhiều thành công trong quản lý chi phí, gia tăng lợi nhuận hướng tới mục tiêu phát triển bền vững. Do đó, cần thiết phải nghiên cứu quá trình ứng dụng EMA trong các doanh nghiêp Nhật Bản để rút ra các bài học kinh nghiệm cho các DN Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế.

Tổng quan về EMA

Trong khoảng 2 thập kỷ trở lại đây, môi trường đang trở thành vấn đề thời sự có tính chất toàn cầu. Sự thay đổi trong nhận thức về trách nhiệm xã hội của DN trước các vấn đề môi trường đã đặt kế toán truyền thống tại DN trước thách thức: làm sao và bằng cách nào có thể kế toán các yếu tố môi trường? không chỉ thông qua vai trò có tính truyền thống là ghi chép và báo cáo các thông tin tài chính, mà còn phải thể hiện được vai trò của kế toán như là một công cụ trợ giúp hữu hiệu cho các nhà quản lý trong quản trị các vấn đề môi trường trong phạm vi từng đơn vị kinh tế. Trong bối cảnh đó, sự ra đời của kế toán môi trường (EA) như là một tất yếu nhằm đáp ứng các đòi hỏi về thông tin môi trường trong hoạt động của các đơn vị cả ở góc độ lý luận và thực tiễn. EA trong DN là một bộ phận cấu thành của kế toán liên quan đến các thông tin về hoạt động môi trường trong phạm vi DN nhằm thu thập, xử lý, phân tích và cung cấp thông tin về môi trường cho các đối tượng trong và ngoài DN sử dụng để ra quyết định. Trong phạm vi DN EA bao gồm: EMA, kế toán tài chính môi trường (EFA), kế toán chi phí môi trường (ECA).

EMA là sự phát triển tiếp theo của kế toán quản trị truyền thống. Theo ủy ban phát triển bền vững của Liên hợp quốc (UNDSD) định nghĩa “EMA là một sự hiểu biết tốt hơn và đúng đắn hơn về kế toán quản trị. Mục đích tổng quát của sử dụng thông tin EA là cho các tính toán nội bộ của tổ chức và cho ra quyết định. Quá trình xử lý thông tin của EMA phục vụ cho việc ra quyết định bao gồm các tính toán vật chất như nguyên liệu, năng lượng tiêu thụ, dòng luân chuyển vật tư và lượng vật chất bị loại bỏ hoặc xả thải và các tính toán tài chính có tính tiền tệ đối với chi phí (cả phần bỏ thêm và tiết kiệm được) doanh thu và thu nhập có liên quan đến các hoạt động có khả năng ảnh hưởng và tác động tiềm tàng đến môi trường”. EMA được áp dụng trong DN nhằm đạt tới các lợi ích sau:

-        Nhận dạng đầy đủ, xác định chính xác và phân bổ đúng đắn các khoản chi phí môi trường giúp cho việc định giá sản phẩm và xác định kết quả kinh doanh đúng từ đó có quyết định đúng về chiến lược sản phẩm cũng như đầu tư thiết bị và công nghệ.

-        Kiểm soát chi phí hoạt động và cải thiện môi trường nhờ vào việc kiểm soát chất thải gắn với nguồn phát sinh.

-        Cải thiện quan hệ với chủ nợ, ngân hàng, cổ đông, khách hàng do đáp ứng được các tiêu chuẩn môi trường quốc tế, tạo được lợi thế thương mại, nâng cao uy tín trong cộng đồng nhờ phát triển hình ảnh “xanh”.

-        Cải tiến hệ thống hạch toán hiện có nhờ vào việc tổ chức hệ thống thông tin kế toán khoa học hơn và gắn kết được luồng thông tin của các hoạt động từ các bộ phận của DN.

EMA tại Nhật Bản

Nhật Bản là quốc gia có chương trình hạch toán môi trường phát triển nhất trong các quốc gia Châu Á. Tại Nhật Bản, sự phát triển của EMA được thể hiện trong sự phát triển của EA nói chung với mục đích phục vụ cho nội bộ DN.

Năm 1997, Bộ Môi trường Nhật Bản (MOE) đã tiến hành những dự án nghiên cứu đầu tiên về EA.

Năm 1998 Viện Kế toán công chứng Nhật Bản đã công bố báo cáo sử dụng thông tin chi phí môi trường để quản trị các vấn đề môi trường. Tháng 12/1998, Báo cáo này đã chỉ ra rằng kế toán công cũng chủ động ghép nối với EA.

Năm 1999 được coi là năm đầu tiên về EA tại Nhật. Hướng dẫn đo lường và báo cáo chi phí môi trường được thông qua bởi ủy ban môi trường vào tháng 3/1999 đã thu hút được sự chú ý của các DN Nhật Bản. Tháng 9/1999 lễ ra mắt của ủy ban EA thuộc Bộ Công nghiệp và Thương nghiệp (METI) đã được thực hiện. Văn phòng chính của ủy ban là Hiệp hội quản trị môi trường cho công nghiệp (JEMAI). Hiệp hội đã tiến hành dự án nghiên cứu trong 3 năm để phát triển công cụ EMA cho phù hợp với các DN Nhật Bản.

Năm 2000, Bộ Môi trường Nhật Bản (MOE) công bố hướng dẫn EA nhằm mục đích khuyến khích các công ty Nhật Bản công bố thông tin EA cho công chúng một cách tự nguyện thông qua các Báo cáo môi trường. Hướng dẫn này đã chỉ ra được chức năng quản trị của EA nhưng nó vẫn đặt trọng tâm hơn vào công bố các báo cáo môi trường ra bên ngoài. Bên cạnh hướng dẫn EA, năm 2001 MOE còn công bố hướng dẫn Báo cáo môi trường tự nguyện áp dụng cho các DN Nhật Bản.

Đối với bộ phận tư nhân, Hiệp hội quản trị Nhật Bản đã thành lập nhóm nghiên cứu về EA từ 7/1999 với sự tham gia của 12 công ty dẫn đầu của Nhật. Nhóm nghiên cứu đã phát triển phương pháp EA  với mục đích sử dụng cho nội bộ DN thực chất đó chính là EMA. Tháng 5/2000 nhóm đã công bố hướng dẫn thực hành “Kế toán chi phí môi trường” cho các DN Nhật Bản. Cuốn sách này được xây dựng dựa trên “Hướng dẫn kế toán chi phí môi trường” được công bố bởi Bộ Môi trường Đức.

Thông qua quá trình phát triển EMA tại Nhật Bản cho thấy một số đặc điểm nổi bật trong quá trình áp dụng tại các DN như sau:

Thứ nhất: Sự phát triển EA tại Nhật Bản có sự thúc đẩy lớn của các cơ quan Chính phủ cụ thể là những hành động của MOE và  METI. Trong khi những hoạt động của MOE đặt tầm quan trọng hơn vào EA cho mục đích công bố thông tin phục vụ các đối tượng bên ngoài (Kế toán tài chính môi trường) thì METI  nhấn mạnh đến chức năng quản trị của EA trong các công ty (EMA). Trong giai đoạn đầu các dự án của METI được tiến hành ở các công ty có quy mô lớn sau đó METI tập trung vào nghiên cứu và phát triển các phương pháp đơn giản cho các  DN nhỏ vừa. 

Thứ hai: Là nước đi sau trong nghiên cứu và áp dụng kế toán  môi trường nói chung và EMA nói riêng, Nhật Bản đã có sự vận dụng tối đa kinh nghiệm của Mỹ và Đức Đặc biệt, phương pháp kế toán dòng vật liệu (MFCA) có nguồn gốc phát triển từ Đức nhưng được vận dụng rất thành công tại Nhật. Tuy nhiên, sự vận dụng này có tính đặc thù là tại Nhật Bản, MFCA chỉ tập trung vào 1 sản phẩm hoặc một quá trình sản xuất do vậy cho phép phân tích chi tiết quá trình cải tiến sản phẩm.

Thứ ba: Trong EA nói chung và EMA nói riêng chi phí môi trường bị giới hạn trong chi phí bảo vệ môi trường và không bao gồm chi phí vật liệu và chi phí xã hội. Tại Nhật Bản, EMA được áp dụng trong các DN không chỉ phục vụ cho mục đích kiểm soát chi phí, trợ giúp cho quyết định chiến lược về thiết kế và phát triển sản phẩm, lựa chọn dự án đầu tư dài hạn mà còn phục vụ cho việc lập báo cáo môi trường bao gồm báo cáo môi trường thường niên bắt buộc theo quy định và báo cáo môi trường tự nguyện của DN.

EA nói chung và EMA nói riêng đã được áp dụng khá phổ biến ở các DN Nhật Bản. Năm 2001, trong số 1203 DN cổ phần và niêm yết trên thị trường tài chính (không bao gồm các công ty tài chính) hoạt động đa dạng trên nhiều lĩnh vực như công nghiệp ô tô, điện tử, giấy, cao su, thiết bị vận tải, hóa học, dệt may, thực phẩm, điện và gas… thì có 208 công ty đã lập báo cáo môi trường của mình trong BCTC, có 140 công ty đã thực hiện công khai hạch toán chi phí môi trường trong đó có tập đoàn Toyota và tập đoàn Canon là 2 tập đoàn hàng đầu tại Nhật thực hiện hạch toán chi phí môi trường có hiệu quả. áp dụng EMA đã giúp các DN Nhật Bản thu được lợi ích hàng tỷ Yên mỗi năm do cắt giảm năng lượng  và vật liệu sử dụng, giảm thiểu chi phí xử lý chất thải và lựa chọn công nghệ và sản phẩm thân thiện với môi trường. Điển hình cho những thành công trong việc áp dụng EMA có thể kể đến tập đoàn Canon. Canon là tập đoàn dẫn đầu thế giới trong lĩnh vực sản xuất máy ảnh, thiết bị nghe nhìn, máy phôtô và thiết bị máy tính cũng như các thiết bị văn phòng khác đã áp dụng MFCA vào hoạt động từ năm 2001 dưới sự tài trợ của MOE và METI qua đó cắt giảm các chất thải (cũng là cắt giảm chi phí môi trường) và làm tăng sản phẩm có ích từ 78% năm 2003 lên 90% năm 2007. Đầu tiên, Canon tiến hành MFCA cho một dây chuyền sản xuất cho một loại thấu kính máy ảnh tại nhà máy chính. Mặc dù, quá trình sản xuất mục tiêu được xem như là sản xuất không rác thải trước khi áp dụng MFCA. Những phân tích MFCA đã khởi điểm cho một loạt sự cắt giảm trong cả những ảnh hưởng môi trường và chi phí phân loại lại rác kính như là hao hụt (phí tổn) vật liệu. Trước đó rác thải kính được coi như kết quả không thể tránh được của quá trình sản xuất và không thể ngăn chặn. Dựa trên phân tích MFCA, Canon đã giới thiệu vật liệu kính mới mỏng hơn trong mối quan hệ với nhà cung cấp kính. Sau những thành công ban đầu, Canon đã mở rộng mô hình MFCA trong toàn bộ tập đoàn.

Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Nghiên cứu quá trình  áp dụng EMA tại các DN của Nhật Bản cho thấy những bài học kinh nghiệm  đối với Việt Nam như sau:

-        Mặc dù EMA là lĩnh vực thuộc về nội bộ DN nhưng sự phát triển của một lĩnh vực mới như EMA cần có có sự đóng góp quan trọng của những nỗ lực trong việc ban hành hướng dẫn và đảm bảo thực thi bằng các nguồn tài trợ của các cơ quan Chính phủ.

-        EMA có thể áp dụng cho các DN có quy mô khác nhau. Tuy nhiên, EMA thường được áp dụng tại các DN có quy mô lớn có nguồn tài chính dồi dào và chính sách hoạt động nghiêm ngặt. Trong giai đoạn đầu EMA nên được thử nghiệm tại một dây chuyền hoặc một bộ phận trước khi tiến hành đại trà toàn DN.

-        Phạm vi ứng dụng của EMA trong các DN rất đa dạng nhưng chiếm tỷ lệ cao ở những DN hoạt động sản xuất trong ngành công nghiệp, nơi hoạt động sản xuất tác động nhiều đến môi trường.

-        Phương pháp thích hợp để thực hiện EMA trong các DN là MFCA vì nó mang lại hiệu quả kinh tế và môi trường cao từ việc tiết kiệm vật liệu, năng lượng và sự phối hợp hoạt động chặt chẽ của tất cả các bộ phận trong DN.

EMA đã được áp dụng phổ biến tại các quốc gia phát triển và đang được triển khai tại các quốc gia đang phát triển để đáp ứng cho quá trình phát triển bền vững. Những bài học kinh nghiệm từ quá trình áp dụng EMA tại Nhật Bản sẽ tạo điều kiện cho các DN Việt Nam rút ngắn thời gian nghiên cứu thử nghiệm và nhanh chóng áp dụng có hiệu quả EMA từ đó nâng cao hiệu quả quản trị kinh tế và môi trường, làm tăng sức cạnh tranh cho DN Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới./.

Tài liệu tham khảo

Ministry of Economy, Trade and Industry  (2002). Environmental management accounting technique workbook.

Ministry of the Environment (2005). Environmental accounting guidelines.

Theo Tạp chí Kế toán & Kiểm toán – Bài của Ths. Hoàng Thị Bích Ngọc - Đại học Thương mại.

Xem thêm
Kế toán quản trị, kế toán tài chính và kế toán chi tiết

Kế toán quản trị, kế toán tài chính và kế toán chi tiết

Kế toán các khoản đầu tư vào công ty liên doanh, liên kết (VAS 28)

Kế toán các khoản đầu tư vào công ty liên doanh, liên kết (VAS 28)

Sự vận động của Tài sản và Nguồn vốn trên các Tài khoản

Sự vận động của Tài sản và Nguồn vốn trên các Tài khoản

Loại hình kế toán Động với mô hình giá gốc

Loại hình kế toán Động với mô hình giá gốc

Cơ chế tài chính cho hoạt động khoa học và công nghệ

Cơ chế tài chính cho hoạt động khoa học và công nghệ

Đối tác
HAA
ACCA
CPA AUSTRALIA
ICAEW
Quảng cáo
PACE
Fast Accounting Online
CIMA
RSM DTL Auditing – Member RSM network
Tổng công ty du lịch Sài Gòn | Saigontourist
Smart Train
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN & TƯ VẤN CHUẨN VIỆT
Đại Học Ngân Hàng - Thành Phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh