- Thông tư 200/2014/TT-BTC ngày 22/12/2014: Hạn chế và vướng mắc trong hạch toán tài sản cố định và bất động sản đầu tư
- Kỹ thuật điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản trị doanh nghiệp
- Quá trình hình thành và phát triển các quy định pháp lý về kế toán ở Việt Nam
- Tổng quan các công trình nghiên cứu về nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng thông tin kế toán của các đơn vị sự nghiệp
- Mối quan hệ giữa Kiểm toán Nhà nước với Kiểm toán độc lập và Kiểm toán nội bộ - Sự cần thiết phải tăng cường
Kế toán công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam: từ quy định đến thực tiễn
|
|
Trong và sau cuộc khủng hoảng tài chính, nhiều cuộc tranh luận gay gắt xoay quanh cuộc khủng hoảng cho rằng, nguyên nhân sâu xa bắt nguồn từ công cụ tài chính phái sinh (CCTCPS). Và tạo ra 2 hướng đánh giá: (i) Nhóm ủng hộ thì cho rằng, phái sinh được xem là công cụ tài chính phức tạp được sử dụng để phòng ngừa rủi ro. Các hợp đồng tương lai truyền thống, nơi mà một bên đồng ý mua /bán một loại hàng hóa nhất định với một mức giá nhất định vào một thời điểm thiết lập trong tương lai, được cho là các giao dịch phái sinh bền vững; (ii) Nhóm phản đối thì gọi phái sinh là "Vũ khí tài chính hủy diệt hàng loạt", lật đổ tổ chức NH lớn và thúc đẩy sự liên tục khủng hoảng kinh tế.
Theo Stulz (2009), sự không chắc chắn về rủi ro được tạo ra bởi các hoạt động phái sinh của các tổ chức tài chính, cụ thể là sự sụp đổ của giá nhà đất.
Một phần không thể tách rời trong hoạt động phái sinh của doanh nghiệp (DN) đó chính là kế toán CCTCPS. Bài viết cung cấp cho người đọc có cái nhìn tổng thể về kế toán CCTCPS ở Việt Nam, từ quy định đến thực tiễn.
A. Kế toán CCTCPS ở Việt Nam1. Quy định pháp lý về kế toán CCTCPS ở Việt Nam
Thế giới đã trải qua gần 20 năm thực hiện kế toán CCTCPS kể từ khi IAS 32 ra đời và có hiệu lực thi hành 01/01/1996. Do tính chất phức tạp của CCTCPS cũng như thực tế áp dụng - xử lý trong phân loại, ghi nhận, đo lường, thuyết minh,... mà chuẩn mực này đã nhiều lần sửa đổi, bổ sung và về cơ bản đã được các quốc gia trên thế giới áp dụng.
Ở Việt Nam, hệ thống các văn bản pháp lý liên quan trực tiếp đến kế toán CCTCPS hiện hành do Bộ Tài chính và NH Nhà nước ban hành (dành cho các tổ chức tín dụng, NH) bao gồm:
a) Do Bộ Tài chính ban hành gồm: VAS 01 - Chuẩn mực chung; VAS 10 - Ảnh hưởng của việc thay đổi tỷ giá hối đoái; VAS 21 - Trình bày báo cáo tài chính (BCTC); VAS 22 - Trình bày bổ sung BCTC của các ngân hàng (NH) và tổ chức tài chính tương tự; TT số 200/2014/TT-BTC, ngày 22/12/2014 quy định Chế độ kế toán DN và TT 53/2016/TT-BTC, ngày 21/03/2016 sửa đổi, bổ sung cho TT 200; TT 210/2009/TT-BTC, ngày 6/11/2009: Hướng dẫn trình bày BCTC và thuyết minh thông tin đối với công cụ tài chính.
b) Do NH Nhà nước ban hành gồm: QĐ 29/2006/QĐ-NHNN sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ một số tài khoản trong hệ thống tài khoản kế toán các Tổ chức tín dụng theo QĐ 479/2004/QĐ-NHNN và QĐ 807/2005/QĐ-NHNN, do Thống đốc NH Nhà nước ban hành; Công văn số 7404/2006/NHNN - KTTC ngày 29/08/2006: Hướng dẫn hạch toán kế toán nghiệp vụ phái sinh tiền tệ; Quyết định 16/2007/QĐ - NHNN, quy định Thuyết minh BCTC.
Về tổng thể, từ nhận thức của các tổ chức lập quy, các đơn vị kinh tế và các đối tượng sử dụng BCTC liên quan đến công cụ tài chính phái sinh ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, trong đó ở góc độ môi trường pháp lý thì Nhà nước giữ vai trò QĐ, ban hành Luật và các chuẩn mực kế toán. Tuy nhiên, khung pháp lý trực tiếp về chế độ kế toán CCTCPS đối với các DN (phi tài chính) còn thiếu, giá gốc vẫn còn tồn tại trong các nguyên tắc kế toán của Việt Nam. Như vậy, tương lai gần để thực hiện kế toán CCTCPS và hoà nhập với quốc tế theo tác giả, Việt Nam cần xem xét, định hướng cho kế toán CCTCPS.
2. Thực tiễn vận dụng kế toán CCTCPS ở Việt NamQuá trình nghiên cứu, khảo sát, hỏi ý kiến chuyên gia về kế toán CCTCPS ở VN gồm các kế toán thực hành tại đơn vị, kiểm toán viên, nhà quản trị DN,... kết quả là DN khi vận hành kế toán CCTCPS. Trong giai đoạn hiện nay, khi mà Nhà nước chưa ban hành chuẩn mực kế toán liên quan trực tiếp đến CCTCPS, còn gặp nhiều khó khăn cụ thể là:
a) DN thường gặp khó khăn trong đo lường sau ghi nhận ban đầu. Do yêu cầu tất cả các CCTCPS phải được đo lường theo giá trị hợp lý khi lập báo cáo về tài sản hoặc nợ phải trả. Vấn đề vướng mắc tại kế toán giá trị hợp lý cho tất cả các công cụ tài chính. Đối với các tổ chức tín dụng, NH, tổ chức tài chính căn cứ vào quy định hiện hành, thời điểm ghi nhận ban đầu đối với phái sinh tiền tệ (chỉ có tiền tệ) là ngày bắt đầu hiệu lực hợp đồng, thời điểm xóa bỏ ghi nhận là ngày tất toán hợp đồng. Sau đó, đơn vị thường xuyên đánh giá lại, ghi nhận trên sổ kế toán theo giá trị hợp lý, đồng thời kết quả kinh doanh được xác định hợp lý trên BCTC. Việc đo lường chỉ được thực hiện cho nghiệp vụ phái sinh tiền tệ, còn các nghiệp vụ khác lại chưa được quy định cụ thể. Ngoài ra, đối với các DN phi tài chính thì việc đo lường lại càng khó thực hiện khi mà các quy định chưa cụ thể, rõ ràng, thêm vào đó là cơ sở để đánh giá lại không có cơ sở do thiếu chuẩn đo lường về chất và về giá. Vấn đề này hoàn toàn phù hợp với nghiên cứu của Keryn & Jayne (2000), kế toán CCTCPS thiếu tính minh bạch, chưa rõ ràng, đồng thời phương pháp hạch toán kế toán CCTCPS theo quy định và vấn đề thực hành có sự khác biệt khá lớn ở các công ty Úc.
b) DN thường gặp khó khăn khi trình bày CCTCPS. Mục đích của thuyết minh về CCTCPS, cho phép người sử dụng BCTC đánh giá mặt thành công và ý nghĩa của các công cụ phái sinh và các giao dịch tự phòng ngừa trên BCTC của công ty. Tuy nhiên, việc không hoặc chưa xác định các tài sản và các khoản nợ tại giá trị hợp lý, sẽ khó cho kế toán thực hiện việc trình bày thông tin trên BCTC. Điều này sẽ giảm đi tính dễ thấy, dễ so sánh và dễ hiểu về các rủi ro liên quan đến phái sinh dẫn đến thông tin mà kế toán trình bày có thể sẽ không tuân thủ, hoặc không đầy đủ trong công bố đặc biệt có liên quan đến GTHL.
c) DN thường gặp khó khăn khi công bố CCTC phái sinh. Mục đích của việc công bố các thông tin cần thiết về CCTC phái sinh giúp người sử dụng BCTC hiểu, biết được DN có thực hiện phòng ngừa dòng tiền, các khoản đầu tư ròng vào các hoạt động ở nước ngoài, phòng ngừa giá trị hợp lý hay không. Việc chưa quy định cụ thể đầy đủ việc khoản mục nào sẽ công bố và mức độ trình bày gây trở ngại cho kế toán khi lập BCTC. Từ đó có thể dẫn đến DN có các giao dịch phòng ngừa, nhưng không công bố hoặc công bố không rõ ràng. Nhà quản lý sử dụng CCTC phái sinh nhiều hơn để giảm rủi ro nhưng lại không công bố hoặc công bố nhưng không đầy đủ nếu như không bắt buộc công bố.
d) DN thường gặp khó khăn khi hạch toán kế toán CCTCPS. Ở Việt Nam, việc sử dụng hệ thống tài khoản để thực hiện ghi sổ kế toán khi có nghiệp vụ phát sinh. Tuy nhiên, hiện tại chưa quy định hoặc hướng dẫn cụ thể số hiệu tài khoản sử dụng trong kế toán CCTCPS. Việc hạch toán lãi hoặc lỗ được đưa vào báo cáo kết quả kinh doanh trong kỳ kế toán, nhưng chưa có tài khoản sử dụng đặc biệt là đối với DN phi tài chính để ghi nhận.
Tóm lại, việc công bố thông tin trên BCTC đối với CCTCPS gần như được NH Nhà nước quy định ở mức đầy đủ. Đối với các DN phi tài chính, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, trực tiếp về xử lý kế toán, như tài khoản sử dụng, hạch toán, đánh giá, trình bày chỉ tiêu có liên quan đến các nghiệp vụ mua /bán, giao dịch CCTCPS trên BCTC. Do đó, việc ghi nhận trong kế toán các giao dịch phái sinh chỉ thực hiện phần lãi hoặc lỗ thực tế phát sinh, trong khi tại ngày lập BCTC phần lãi hoặc lỗ chưa phát sinh thì chưa được ghi nhận bởi chưa đủ bằng chứng đáng tin cậy. Ví dụ như, DN mua một hợp đồng tương lai trị giá 1 tỷ đồng về cà phê nhưng tại ngày lập BCTC, giá trị hàng hóa đã mua có thể giảm, chỉ còn 950 triệu đồng hoặc có thể tăng lên 1, 15 tỷ đồng, nhưng trên sổ kế toán vẫn chỉ thể hiện 1 tỷ đồng. Thực tế này, không những không phản ánh hết giá trị thực trong hệ thống sổ sách kế toán mà còn tạo kẽ hở cho tình trạng lãi giả, lỗ thật (hoặc ngược lại) so với báo cáo kế toán của DN.
B. Định hướng hội nhập kế toán CCTCPS ở Việt NamĐể tạo điều kiện thuận lợi cho DN Việt Nam hội nhập KTCC tài chính nói chung và phái sinh nói riêng, cần xác định một số điều kiện cần thiết trong quá trình hội nhập quốc tế, có thể là:
1. Điều kiện cầna) Điều kiện về thị trường
Xuất phát từ nhu cầu của nền kinh tế, để kế toán CCTCPS Việt Nam hội nhập kế toán quốc tế, trước hết đối với thị trường phái sinh cần phải nâng cao số lượng và chất lượng hoạt động đặc biệt chú trọng vào thị trường chính thức; Khuyến khích và mở rộng các tổ chức tham gia, nhằm thúc đẩy cho thị trường hoạt động sôi động hơn nữa. Củng cố và phát triển đầy đủ các nghiệp vụ TCPS, đồng thời chuẩn hoá các CCTCPS. Xây dựng và hoàn thiện các định chế chuyên nghiệp liên quan đến các nghiệp vụ TCPS.
b) Điều kiện về môi trường pháp lý
Để tạo sự ổn định lâu dài và khuyến khích các bên tham gia thị trường, cần phải tiếp tục hoàn thiện quy định kế toán bằng cách xây dựng các chuẩn mực kế toán về nghiệp vụ phái sinh phù hợp với quy định quốc tế, cụ thể: Hướng dẫn chi tiết thực hiện hạch toán kế toán CCTCPS, cách định giá, tính toán thu nhập, chi phí,... của các giao dịch phái sinh theo giá trị được điều chỉnh theo giá thị trường; Xây dựng tài khoản kế toán riêng cho các nghiệp vụ phái sinh và phải đảm bảo được tính nhất quán trong việc tính toán thu nhập khi đã bù trừ phần tổn thất; Trình bày thông tin về phái sinh trên BCTC cần công khai, minh bạch. Thuyết minh BCTC cần phải chi tiết, đầy đủ thông qua việc nêu rõ chính sách kế toán áp dụng, xác định giá trị của phái sinh tại thời điểm lập BCTC và phân tích mức độ rủi ro liên quan đến phái sinh; Hoàn thiện quy chế thanh tra, giám sát, kiểm tra công tác kế toán trong lĩnh vực phái sinh.
2. Điều kiện đủa) Điều kiện về con người
Việc phát triển nguồn nhân lực trong công tác kế toán liên quan đến phái sinh cần phải được quan tâm trong công tác tuyển dụng và đào tạo chuyên môn. Đặc biệt là, phải có cán bộ nòng cốt hướng dẫn thực hiện và xử lý kế toán liên quan đến phái sinh, đồng thời phải có chính sách đào tạo đội ngũ kế toán am hiểu trong lĩnh vực TCPS.
b) Điều kiện về thông tin
Chuẩn mực kế toán Việt Nam hiện nay vẫn còn duy trì nguyên tắc giá gốc, nhưng đối với kế toán CCTCPS lại đo lường theo giá trị hợp lý. Khi điều chỉnh theo giá thị trường tại ngày lập BCTC, thì nhất thiết phải có kênh cung cấp thông tin cho việc định giá phái sinh. Chính vì lẽ đó nắm bắt thông tin, nắm bắt diễn biến thị trường nhằm phân tích, xử lý thông tin hiệu quả là điều kiện cần thiết để tạo điều kiện cho DN nâng cao khả năng thu thập thông tin về tỷ giá, lãi suất, giá cả hàng hoá,... trên thị trường nội địa và thế giới. Đồng thời, phục vụ công tác kế toán ghi nhận lãi /lỗ trong kỳ kinh doanh.
C. Kết luậnXem xét bối cảnh áp dụng kế toán CCTCPS của các nước trên thế giới, nhìn lại đặc điểm nền kinh tế Việt Nam thì hiện tại đối tượng tham gia giao dịch phái sinh chỉ thực hiện ở các NH thương mại với giá trị giao dịch rất thấp, không đáng kể, thậm chí chưa được các DN phi tài chính sử dụng. Lý do là, Việt Nam chưa phải là quốc gia phát triển, việc gia nhập WTO chỉ ở giai đoạn đầu, thị trường tài chính Việt Nam chưa thực sự liên thông với thị trường thế giới, mức độ tham gia thị trường của các DN thấp (do chưa có nhu cầu) hoặc ý thức và kiến thức về sử dụng phái sinh của DN còn xa lạ, mơ hồ, cộng với khuôn khổ pháp lý, các luật lệ, chính sách quản lý Nhà nước còn thiếu, cơ chế về nghiệp vụ chưa có. Đặc biệt là, hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam còn chưa có các chuẩn mực tương đồng với các chuẩn mực kế toán quốc tế về công cụ tài chính (IAS 32, IFRS 7, IFRS 9).
Việc thiếu vắng các chuẩn mực kế toán để ghi nhận, đánh giá, trình bày, thuyết minh của công cụ tài chính nói chung và CCTCPS nói riêng, sẽ ảnh hưởng đáng kể đến việc xác định kết quả tài chính, quản trị rủi ro tài chính của DN. Đồng thời, các cơ quan giám sát tài chính, NH, chứng khoán, các nhà nghiên cứu,... cũng không thể có được thông tin đầy đủ, trung thực và kịp thời./.
Tài liệu tham khảo
1. Bộ Tài chính (2006), QĐ số 15/2006/QĐ-BTC, ngày 20/03/2006.2. Bộ Tài chính, TT 210/2009/TT - BTC, ngày 6/11/2009, TT 244/2009/TT-BTC, ngày 31/12/2009. VAS 01, VAS 10, VAS 21, VAS 22.
3. NH Nhà nước Việt Nam, Quyết định 807/2005/QĐ - NHNN, Công văn số 7404/2006/NHNN - KTTC, ngày 29/08/2006; QĐ 29/2006/QĐ-NHNN, ngày 10/07/2006; Quyết định 16/2007/QĐ - NHNN ngày 18/04/2007; QĐ 479/2004/QĐ-NHNN, ngày 29/02/2008
4. Keryn G. C. & Jayne M. G., 2000. Practice versus prescription in the disclosure and recognition of derivatives. Australian Accounting Review. Vol. 11 No. 2
5. Stulz R. M. (2009), “Financial Derivatives Lessons From the Subprime Crisis”, The Milken Institute Review. First Quarter 2009.
6. Vashishtha A. & Kumar S. (2010), “Development of financial derivatives market in India: A case study”, International Research Journal of Finance and Economics, 37: 15-29.
Theo Tạp chí Kế toán & Kiểm toán của Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam – Bài của Nguyễn Thị Hồng Hạnh * Đại học Mở TP.HCM