Hoàn thiện hệ thống BCTC của các DN Việt Nam trong thời kỳ hội nhập


Với sức ép của quá trình hội nhập về kinh tế khu vực và thế giới, về đầu tư nước ngoài, về thống nhất thị trường dịch vụ kế toán và kiểm toán, ... Đặc biệt, mục tiêu của Việt Nam sẽ hội nhập hoàn toàn với quốc tế trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán; việc hoàn thiện hệ thống báo cáo tài chính (BCTC) doanh nghiệp (DN) là một yêu cầu tất yếu. Cũng như các nước, Việt Nam không thể bỏ qua vấn đề này nếu muốn thành công trong môi trường cạnh tranh quốc tế.

Vì thế, sớm nghiên cứu để ban hành Chế độ BCTC DN, giảm bớt và tiến tới xóa bỏ những khoảng cách, những ranh giới không cần thiết giữa Hệ thống BCTC DN Việt Nam với các nước, là một trong những điều kiện thiết yếu để nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam, thúc đẩy quá trình đầu tư nước ngoài vào Việt Nam và đầu tư của Việt Nam ra nước ngoài - trong đó có dịch vụ kế toán và kiểm toán. Xuất phát từ những vấn đề trên, bài viết đánh giá về mức độ hòa hợp giữa VAS và IAS /IFRS trên hệ thống BCTC của các DN ở Việt Nam, từ đó đề xuất giải pháp để hoàn thiện trong thời kỳ hội nhập.

Đánh giá tổng hợp về mức độ hòa hợp giữa VAS và IAS /IFRS trên BCTC của các DN

Một là, Đánh giá về mức độ hòa hợp giữa VAS và IAS /IFRS trên BCTC của các DN

Theo khảo sát, ta thấy rằng hầu như DN không tiến hành lập hệ thống BCTC kế hoạch vào giữa niên độ ảnh hưởng đến quá trình đối chiếu, chức năng kiểm soát và giải pháp điều chỉnh kịp thời nên khi vận hành quá trình kinh doanh của đơn vị gặp khó khăn; thông tin trên hệ thống BCTC mà DN cung cấp có sự sai lệch trọng yếu nên dẫn đến đơn vị tiến hành lập dự phòng cho các ước tính kế toán trong điều kiện chưa chắc chắn; DN có mong muốn thể hiện một số nội dung theo cách khác so với quy định của pháp luật tại DN, có phát sinh đối tượng kế toán mà chưa có hướng dẫn cụ thể từ phía Bộ Tài chính; các quy định về biểu mẫu BCTC hiện nay có hạn chế. Điều này sẽ ảnh hưởng đến tính kịp thời, khi cung cấp thông tin cho các nhà quản trị, nhà đầu tư,…

Hai là, Kết luận về sự hòa hợp

Hiện nay, hơn 50% thông tin trên BCTC của các DN chưa đạt mức độ hòa hợp khi so sánh giữa VAS với IAS /IFRS. Với sự đa dạng về ngành nghề kinh doanh của các DN trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản và dịch vụ thì việc áp dụng một biểu mẫu, nội dung BCTC thống nhất trên cả nước đã tạo được tính nhất quán nhưng cũng dẫn đến hạn chế tính linh hoạt, kịp thời trong việc thể hiện thông tin đặc thù của mỗi DN. Để làm rõ hơn bản chất chi phí đối với người đọc BCTC, các chi phí ngoài thể hiện theo chức năng như hiện nay cần thể hiện theo tính chất.

Ba là, Những vấn đề trao đổi khi nghiên cứu về sự hòa hợp giữa VAS với IAS /IFRS trên BCTC

VAS được xây dựng dựa trên IAS /IFRS từ những năm 2000, theo nguyên tắc vận dụng có chọn lọc thông lệ quốc tế, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế và trình độ quản lý của DN Việt Nam. Hệ thống VAS được ban hành lần đầu năm 2001. Mặc dù, đã có sửa đổi, bổ sung nhưng đến nay VAS vẫn chưa được cập nhật  để hoàn chỉnh. Những năm qua, nhiều IAS đã được ban hành mới hoặc ban hành lại nhưng Việt Nam mới chỉ tiến hành việc cập nhật gần  đây. Chính  điều này, đã tạo sự khác biệt về nội dung giữa VAS và IFRS. Cụ thể là:

VAS 1: Chuẩn mực chung

Được biên soạn dựa trên khuôn mẫu lý thuyết cho việc lập và trình bày IFRS của IASC (1989). Nguyen & Gong (2012) cho rằng, các khác biệt chủ yếu là về vai trò VAS 1 không đóng vai trò khuôn mẫu lý thuyết cho việc lập và trình bày BCTC quốc tế như của IAS. 

VAS 1 cần có sự bổ sung, chỉnh sửa kịp thời:

-        Các nguyên tắc trong VAS 1 không phù hợp với chuẩn mực quốc tế, điều này sẽ dẫn đến việc hiểu không đúng của người sử dụng. Bên cạnh đó, nguyên tắc giá gốc là một nguyên tắc không phù hợp với nhiều phương pháp đánh giá của các chuẩn mực cụ thể. Cần xem xét lại nguyên tắc giá gốc, bởi điều này ảnh hưởng đến chất lượng thông tin và cân nhắc để áp dụng giá trị hợp lý bởi vì trong khi các IFRS đều được áp dụng theo giá trị hợp lý.

-        Việc trình bày dưới dạng các nguyên tắc và yêu cầu kế toán cơ bản không làm rõ  được các  đặc  điểm chất lượng, đặc biệt là hiện nay Khuôn mẫu lý thuyết cho việc lập và trình bày IFRS (2010) đã có những thay  đổi quan trọng, làm nền tảng cho những thay đổi hoặc ban hành các chuẩn mực mới. Những nguyên tắc cơ bản trong VAS 1 cần chuyển đổi thành các đặc điểm chất lượng của BCTC.  Có ý kiến cho rằng, cần phải chỉnh sửa lại các nguyên tắc và yêu cầu cơ bản theo hướng hội tụ giữa IASB và FASB.

-        Khác biệt cơ bản nhất là VAS chưa có quy định cho phép đánh giá lại tài sản và nợ phải trả theo giá trị hợp lý tại thời điểm báo cáo. Điều này ảnh hưởng lớn đến việc kế toán các tài sản và nợ phải trả được phân loại là công cụ tài chính, làm suy giảm tính trung thực, hợp lý của BCTC và chưa phù hợp với IAS /IFRS.

VAS 2: Hàng tồn kho

IAS 2 cho phép sử dụng các phương pháp ước tính giá trị hàng tồn kho như phương pháp chi phí định mức hoặc phương pháp giá bán lẻ, nhưng vấn đề này không được đề cập ở VAS 2. VAS 2 cho phép áp dụng phương pháp “Nhập sau - Xuất trước” (LIFO) trong khi IAS/ IFRS không cho phép áp dụng phương pháp này.

VAS  3: Tài sản cố định hữu hình

- Chỉ cho phép đánh giá lại tài sản cố định là bất động sản, nhà xưởng và thiết bị trong trường hợp có quyết định của Nhà nước, đưa tài sản đi góp vốn liên doanh, liên kết, chia tách, sáp nhập DN và không được ghi nhận phần tổn thất tài sản hàng năm. Trong khi đó, theo IAS 16, DN được phép đánh giá lại tài sản theo giá thị trường và được xác định phần tổn thất tài sản hàng năm. Đồng thời, được ghi nhận phần tổn thất này theo quy định tại IAS 36 về tổn thất tài sản.

VAS 11: Hợp nhất kinh doanh

Quy định lợi thế thương mại được phân bổ dần trong thời gian không quá 10 năm, kể từ ngày mua trong giao dịch hợp nhất kinh doanh. Trong khi đó, IFRS 3 quy định DN phải đánh giá giá trị lợi thế thương mại tổn thất.

VAS 21: Trình bày BCTC

Không quy định trình bày biến động vốn CSH thành một báo cáo riêng biệt như IAS 1, mà chỉ yêu cầu trình bày trong thuyết minh BCTC. Ngoài ra, chế độ kế toán Việt Nam quy định mẫu biểu báo cáo một cách cứng nhắc, làm triệt tiêu tính linh hoạt và đa dạng của hệ thống BCTC, trong khi IAS/IFRS không đưa ra mẫu biểu cụ thể của báo cáo. Theo VAS 21, doanh thu và chi phí tài chính được tính vào lãi /lỗ hoạt động kinh doanh trên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là không phù hợp với thông lệ quốc tế, khi các khoản lãi /lỗ bán cổ phiếu vốn không phải của hoạt động mang tính thường xuyên của DN lại được hiểu là kết quả hoạt động kinh doanh chủ yếu.

Ngoài ra, VAS hiện thiếu một số chuẩn mực liên quan đến các đối tượng và giao dịch đã phát sinh. Thêm vào đó, phạm vi chi phối của hệ thống VAS hiện nay, được ban hành áp dụng chung cho tất cả các DN thuộc các ngành, các thành phần kinh tế. Điều này đồng nghĩa, chuẩn mực kế toán (CMKT) áp dụng không phân biệt DN niêm yết và không niêm yết, DN có  quy  mô  lớn  hay  nhỏ và vừa  (ngoại trừ trường hợp các DN áp dụng hệ thống kế toán ban hành theo Quyết định  48/2006/QĐ-BTC). Nếu CMKT  được áp dụng chung sẽ dẫn đến nơi thiếu, chỗ thừa. Bởi, đối với các DN có quy mô lớn và DN niêm yết ngày càng xuất hiện nhiều nghiệp vụ phức tạp dẫn đến hệ thống hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu, trong khi đó phần lớn DN không niêm yết thì VAS trở nên quá tầm, nhiều nội dung quá phức tạp. Vì thế, để đi vào thực tiễn,  hệ thống  VAS phải thông qua các hướng dẫn hay quy  định của Chế độ kế toán DN với lý do là, các DN Việt Nam buộc phải sử dụng hệ thống TK kế toán Việt Nam.

Kết quả khảo sát cho thấy các đối tượng lập, sử dụng và kiểm tra BCTC đều đánh giá chưa cao việc xử lý quan hệ giữa chuẩn mực và Chế độ kế toán. Theo Nguyen & Richard (2011) và Nguyen & Tran (2012) cho rằng, việc tồn tại song song hệ thống CMKT và Chế độ kế toán dẫn đến những khó khăn và cản trở cho Việt Nam trong quá trình hòa hợp kế toán quốc tế.

Ngoài ra, các hướng dẫn thực hiện CMKT chưa phù hợp. Thời gian qua, Bộ Tài chính ban hành các thông tư hướng dẫn CMKT mang nặng tính chất “gán ghép” vào các TK liên quan trong hệ thống tài khoản (TK) kế toán hiện hành cũng như quy định các bước hạch toán kế toán vào các TK tương ứng trong từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Việc hướng dẫn CMKT theo TK, để hạch toán kế toán đã thể hiện tính kiểm soát của Nhà nước trong việc thực thi chính sách Chế độ kế toán. Điều này sẽ “trói buộc” hệ thống CMKT, phần nào làm mất đi ý nghĩa và bản chất của chuẩn mực.

Thời  gian  qua,  Bộ Tài  chính  đã  công  bố dự thảo chỉnh  sửa,  bổ sung  một  số nội dung liên quan đến 8 CMKT Việt Nam, đã ban hành trên cơ sở phù hợp hơn với các IAS.  Đây là dấu hiệu cho thấy, sự quyết tâm của Việt Nam trong việc chuẩn hoá chất lượng thông tin của kế toán theo xu hướng hội tụ kế toán quốc tế. Tuy nhiên, quá trình thực hiện này vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định, cụ thể:

-        Về lộ trình thời gian và nội dung của CMKT cập nhật.

-        Đối  với  đội  ngũ chuyên  môn  xây  dựng  chuẩn  mực,  Bộ Tài  chính  chưa quan tâm đến lực lượng chuyên môn toàn thời gian để biên soạn chuẩn mực.

Từ những nhận định trên cho thấy, việc cập nhật CMKT chưa thể hiện tính chuyên nghiệp nhằm nâng cao chất lượng thông tin kế toán.

Một số giải pháp góp phần gia tăng mức độ hòa hợp trên BCTC của các DN ở Việt Nam trong thời kỳ hội nhập

Thứ nhất, Thiết kế “hệ thống kế toán thống nhất”

BCTC là một trong những công cụ quan trọng nhất, để nhà đầu tư ra quyết định. Vì đó là nơi, ghi lại kết quả của họ trên một nguyên tắc cân đối kế toán, để cung cấp chính xác thông tin, duy trì tính nhất quán và so sánh các thông tin nhằm thuận lợi cho việc kiểm toán của các công ty này. Việc áp dụng một hệ thống kế toán thống nhất, là một bước tiến lớn chuẩn hóa các thông lệ kế toán - điều này cũng đồng nghĩa  áp dụng các ''đồng phục hệ thống kế toán'' trên cả nước.

Nguyên tắc IFRS như một căn cứ và cũng bởi sự chấp nhận và ứng dụng của tiêu chuẩn mới cả trong nước và quốc tế (Kaya, 2004, pp. 13-14). Tuy nhiên, khó khăn khi các cơ quan quản lý Trung ương thực hiện vấn đề này thì nguyên nhân tạo nên lực cản làm giảm hiệu lực của chính sách chính là cán bộ kế toán trực tiếp thực hiện công việc. Họ cho rằng quá nhiều nội dung đan chéo nhau, luôn có sự thay đổi về các Thông tư, Nghị định khi triển khai văn bản, … Như vậy, xuất phát từ thực tiễn và dựa trên kinh nghiệm của Thổ Nhĩ Kỳ việc áp dụng một hệ thống kế toán thống nhất bao gồm: Khái niệm cơ bản của kế toán; giải thích các chính sách kế toán; nguyên tắc của BCTC; chuẩn bị và trình bày BCTC; các khuôn khổ của một biểu đồ thống nhất của các TK, biểu đồ của TK, và giải thích.

Thứ hai, Xây dựng hệ thống BCTC linh hoạt

Thông tin kế toán, cần có sự đồng nhất với kế toán quốc tế và đảm bảo tính linh hoạt nhằm phản ánh sự thay đổi nhanh chóng về môi trường kinh doanh, quy mô, cơ cấu tổ chức của DN, … VAS 21 đưa quy định khung và yêu cầu trình bày thông tin theo mẫu quy định đối với từng BCTC. Điều này sẽ dẫn đến việc trình bày và công bố thông tin thiếu linh hoạt, giảm chất lượng thông tin trên BCTC. Vì vậy, để phù hợp với các quy định của quốc tế, Việt Nam cần chỉnh sửa thay đổi VAS 21. Mỗi DN dựa vào đặc điểm kinh doanh của mình lựa chọn hình thức, kết cấu, nội dung trình bày  BCTC sao cho phù hợp với đặc điểm ngành nghề, đối tượng tác động, khả năng nắm bắt thông tin, đề xuất giải pháp kịp thời, … chứ không bắt bắt buộc mẫu chung như hiện nay.

Thứ ba, Đảm bảo tính trọng yếu khi trình bày BCTC nhằm cung cấp thông tin kế toán minh bạch và trung thực

Nếu không đảm bảo tính trọng yếu thì chất lượng trên BCTC sẽ giảm và làm cho người sử dụng BCTC không đủ thông tin về tình hình tài chính, kết quả kinh doanh, lưu chuyển tiền của DN. Bên cạnh đó, ảnh hưởng của trọng yếu là điểm mấu chốt để hiểu và áp dụng IFRS. Chính vì vậy, để đáp ứng xu hướng hội tụ đồng thời nâng cao tính trọng yếu của thông tin trên hệ thống BCTC của các DN hiện nay, nhằm đảm bảo thông tin minh bạch thì Nhà nước cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề này.

Thứ tư, Điều chỉnh VAS 01 nhằm thay đổi đặc điểm chất lượng của BCTC phù hợp với IAS

Chuẩn mực này được biên soạn, dựa trên Khuôn mẫu lý thuyết cho việc lập và trình bày BCTC quốc tế của IASC (1989). Tuy nhiên, hiện nay khuôn mẫu lý thuyết cho việc lập và trình bày BCTC quốc tế đã có những thay đổi quan trọng. Vì vậy, các nguyên tắc trong VAS01 không phù hợp với chuẩn mực quốc tế, điều này sẽ dẫn đến việc hiểu sai của người sử dụng. Cần chỉnh sửa lại VAS 01 theo hướng hội tụ giữa IASB và FASB và được trình bày dưới dạng các đặc điểm chất lượng.

Thứ năm, Sử dụng phương pháp giá trị hợp lý trong định giá các yếu tố của BCTC

Hiện nay, VAS chưa có quy định cho phép đánh giá lại tài sản và nợ phải trả theo giá trị hợp lý tại thời điểm báo cáo. Điều này ảnh hưởng lớn đến việc kế toán các tài sản và nợ phải trả được phân loại là công cụ tài chính, làm suy giảm tính trung thực, hợp lý của BCTC và chưa phù hợp với IAS /IFRS. Tuy nhiên, việc áp dụng IAS /IFRS không phải là hoàn toàn dễ dàng đối với các DN ở các quốc gia vì IAS /IFRS được xem là khá phức tạp. Và một trong những thách thức đó, là phải có đội ngũ nhân viên kế toán hiểu đúng và đầy đủ cũng như chi phí khi áp dụng. Do đó, cần phát huy tối đa vai trò của Hội nghề nghiệp kế toán trong việc hướng dẫn và áp dụng IAS /IFRS cho các kế toán tại DN.

Thứ sáu, Sử dụng các bảng thuyết minh BCTC nhằm gia tăng tính rõ ràng và dễ hiểu

BCTC theo IFRS, giúp các nhà đầu tư có thể so sánh các chỉ tiêu hoạt động. Từ đó, giúp nhà đầu tư có thể đưa ra những nhận định chính xác và có một bức tranh toàn diện hơn về hoạt động của DN.

Các nhà quản trị cho rằng, trong việc chia sẻ thông tin tài chính minh bạch với các nhà đầu tư, nâng cao uy tín của đơn vị và mối quan hệ với cộng đồng tài chính, đưa DN tiệm cận với những chuẩn mực và thông lệ quốc tế.

Khi các nước thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập với nền kinh tế thế giới thì quá trình hội tụ kế toán quốc tế ngày càng được sự quan tâm của các tổ chức quốc tế về kế toán cũng như các quốc gia trên thế giới. Nhiều quốc gia đã chủ động và tích cực tham gia bằng việc áp dụng (IAS/IFRS). Tuy nhiên, tại các quốc gia và từng khu vực đã vận dụng IFRS theo những phương pháp tiếp cận khác nhau. Trước tình hình đó, một quốc gia đang phát triển như Việt Nam cũng không là ngoại lệ. Vì vậy, Việt Nam cần phải nhận định đúng đắn tình hình để có những lộ trình thích hợp cập nhật các thông lệ quốc tế nhằm tạo dựng môi trường kinh doanh, môi trường pháp lý đặc biệt đối với lĩnh vực kế toán, kiểm toán cần thực hiện theo tiến trình hòa hợp, hướng đến sự hội tụ với kế toán quốc tế.

Tài liệu tham khảo

  1. Bộ Tài chính, 26 CMKT.
  2. Nguyễn Thế Lộc, Tính hợp lý của“ Giá trị hợp lý” trong IFRS, Tạp chí Kiểm toán số 11, 2010.
  3. Trần Xuân Nam, IFRS: Việt Nam và sự khác biệt.
  4. PGS.TS Võ Văn Nhị & Ths. Lê Hoàng Phúc, Sự hoà hợp giữa VAS và IAS, Tạp chí kiểm toán số 12/2011.
  5. Nguyễn Phúc Sinh, Nâng cao tính hữu ích của BCTC DN Việt Nam, LATS,  2008;
  6. Trần Quốc Thịnh, Định hướng xây dựng chuẩn mực BCTC Việt Nam LATS kinh tế Đại học kinh tế TP.HCM,2014
  7. A Comparison of IFRS and Thai GAAP, Vietnamese GAAP, Cambodian GAAP and Laos GAAP. PricewaterhouseCoopers, May 21, 2007
  8. Biddle, G., G. Hilary, and R. Verdi. 2009. How does financial reporting qualityimprove investment efficiency? Working paper, MIT.

 

Theo Tạp chí Kế toán & Kiểm toán – Bài của TS. Trần Thị Cẩm Thanh - Khoa Kinh tế & Kế toán - ĐH Quy Nhơn

Xem thêm
Thủ tục phân tích trong kiểm toán BCTC

Thủ tục phân tích trong kiểm toán BCTC

Kế toán tài sản dài hạn chờ bán

Kế toán tài sản dài hạn chờ bán

Tác động của môi trường kiểm soát chi phí đến hiệu quả tài chính của DNNVV

Tác động của môi trường kiểm soát chi phí đến hiệu quả tài chính của DNNVV

Hoàn thiện chứng từ tiền lương và các khoản trích theo lương

Hoàn thiện chứng từ tiền lương và các khoản trích theo lương

Ứng dụng CMA để xác định chi phí môi trường trong DN sản xuất

Ứng dụng CMA để xác định chi phí môi trường trong DN sản xuất

Đối tác
HAA
ACCA
CPA AUSTRALIA
ICAEW
Quảng cáo
PACE
Fast Accounting Online
CIMA
RSM DTL Auditing – Member RSM network
Tổng công ty du lịch Sài Gòn | Saigontourist
Smart Train
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN & TƯ VẤN CHUẨN VIỆT
Đại Học Ngân Hàng - Thành Phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh