Áp dụng Chuẩn mực Báo cáo Tài chính Quốc tế (IFRS). Khó khăn đặt ra đối với các doanh nghiệp niêm yết Việt Nam


Trong xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, việc áp dụng IFRS giúp cho thông tin báo cáo tài chính của các doanh nghiệp minh bạch hơn, độ tin cậy cao hơn, tăng khả năng so sánh trên phạm vi quốc tế là cơ sở các nhà đầu tư trong và ngoài nước đưa ra các quyết định kinh tế. Vừa qua, Bộ Tài chính đã xây dựng đề án đưa IFRS vào Việt Nam và cập nhật, ban hành mới VAS /VFRS, trong đó đề cập đến hướng đi cho Việt Nam, lộ trình áp dụng, biện pháp triển khai, thực hiện từ năm 2017 đến năm 2025. Điều đó đặt ra không ít thách thức cho Việt Nam.

1. Giới thiệu Chuẩn mực Báo cáo tài chính quốc tế (IFRS)

IFRS ra đời với mục tiêu tạo “ngôn ngữ chung” cho việc lập và trình bày các báo cáo tài chính (BCTC) cung cấp cho các đối tượng sử dụng thông tin nâng cao tính khách quan, tính có thể so sánh được của thông tin tài chính trên toàn cầu. IFRS được ban hành bởi Hội đồng Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB – International Accounting Standards Board), tiền thân là ủy ban Chuẩn mực Kế toán quốc tế (IASC – International Accounting Standards Committee). IASC chính thức được thành lập vào tháng 6/1973. Các nước sáng lập ra tổ chức này bao gồm 10 nước đó là: Australia, Canada, Đức, Nhật Bản, Hòa Kỳ, Anh, Ireland, Pháp, Mexico và Hà Lan, các tổ chức nghề nghiệp kế toán của các nước này cũng đồng thời tham gia trong Ban điều hành IASC vào thời điểm thành lập. Từ năm 1973 đến năm 2000, IASC đã ban hành nhiều chuẩn mực kế toán quốc tế và được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước trên thế giới. Năm 2001, IASB ra đời thay thế cho IASC. Từ đó đến nay, IASB đã sửa đổi, bổ sung một số chuẩn mực kế toán quốc tế (IAS), thay thế một số IAS bằng các chuẩn mực quốc tế về trình bày BCTC IFRS, đồng thời ban hành một số IFRS cho một số vấn đề chưa được đề cập đến trong IAS. IFRS được ban hành theo những quy trình rất chặt chẽ, đảm bảo chất lượng, nó có vai trò quan trọng và không thể thiếu trong quá trình toàn cầu hóa.

Đến nay, có rất nhiều quốc gia áp dụng IFRS theo thống kê ngày 30/8/2016 của ủy ban IAS (IASB) có 137 quốc gia và vùng lãnh thổ đã công bố cam kết áp dụng IFRS, trong đó có 15 nước cho phép công ty được miễn trừ nghĩa vụ lập và trình bày BCTC theo chuẩn mực kế toán quốc gia nếu đã trình bày BCTC theo IAS. Tất cả các tổ chức có tác động quan trọng đến nền kinh tế thế giới như WB, IMF, G20 và một số tổ chức khác đều ủng hộ và hỗ trợ việc áp dụng IFRS ở các nước. Trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam trên đà hội nhập ngày càng sâu rộng với nền kinh tế khu vực và thế giới, đòi hỏi sự phát triển của thị trường vốn yêu cầu thông tin tài chính trên BCTC nâng cao tính minh bạch, độ tin cậy về thông tin tài chính của các doanh nghiệp (DN) nhất là các DN niêm yết, dễ so sánh tạo niềm tin cho các nhà đầu tư, đồng thời thu hút vốn đầu tư nước ngoài việc áp dụng IFRS. Vừa qua, Bộ Tài chính đã xây dựng đề án đưa IFRS vào Việt Nam và cập nhật, ban hành mới VAS /VFRS, trong đó đề cập đến hướng đi cho Việt Nam, lộ trình áp dụng, biện pháp triển khai, thực hiện đến năm 2025.

2. Hệ thống Chuẩn mực Kế toán Việt Nam (VAS)

VAS được ban hành gồm 26 chuẩn mực, được xây dựng dựa trên các CMKT quốc tế (IAS) theo nguyên tắc phù hợp với đặc điểm nền kinh tế và tình hình các DN tại Việt Nam. Các chuẩn mực này được ban hành qua 5 đợt, từ năm 2001 đến năm 2005, được xây dựng dựa trên Chuẩn mực kế toán quốc tế IAS /IFRS, do Hội đồng chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB) ban hành theo nguyên tắc vận dụng có chọn lọc thông lệ quốc tế, phù hợp với đặc điểm nền kinh tế và trình độ quản lý của DN Việt Nam tại thời điểm ban hành chuẩn mực. Nhưng đến nay, với xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế và tham gia Hiệp định TPP và AEC thì việc lập BCTC theo IFRS ngày càng trở nên cần thiết, tạo điều kiện phát triển thị trường vốn Việt Nam hòa vào dòng chảy của thị trường vốn trên thế giới. Vừa qua, với việc ban hành Thông tư số 200/2014/TT-BTC về chế độ kế toán DN có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2015 và Luật Kế toán số 88/2015/QH13 có hiệu lực, thi hành từ ngày 01/01/2017 với nhiều điểm mới cho thấy, sự tiến bộ trong việc tiếp cận chuẩn mực kế toán quốc tế của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, về cơ bản việc lập và trình bày BCTC theo VAS và IAS /IFRS vẫn tồn tại những khác biệt.

Thứ nhất: Đối với VAS ghi nhận, đo lường và phản ánh giá trị của DN chủ yếu theo nguyên tắc giá gốc đế khái niệm giá trị hợp lý mới bắt đầu được nhắc đến một cách chính thức trong Luật Kế toán, áp dụng từ ngày 01/01/2017, còn trong IAS /IFRS các yếu tố của BCTC phản ánh theo giá trị hợp lý.

Thứ hai: VAS chưa có chuẩn mực đề cập về suy giảm giá trị tài sản cố định, hiện tại giá trị tài sản cố định được ghi nhận theo nguyên giá, khấu hao lũy kế và giá trị còn lại. Điều này dẫn đến giá trị của nó trên BCTC chưa có thể phản ánh đúng giá trị thu hồi của tài sản.

Thứ ba: Hệ thống BCTC theo VAS còn một số khác biệt so với IAS /IFRS. Theo VAS, hệ thống BCTC DN gồm: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, Thuyết minh BCTC. Trong đó, báo cáo này trình bày báo cáo thay đổi vốn chủ sở hữu của DN. Còn theo IAS /IFRS báo cáo thay đổi chủ sở hữu được tách thành một báo cáo riêng. Bên cạnh đó, IAS/IFRS đưa ra những thông tin bắt buộc phải trình bày, cách trình bày, phương pháp làm nhưng không bắt buộc tất cả các DN phải sử dụng các biểu mẫu BCTC giống nhau tạo ra sự linh hoạt, đa dạng của BCTC phù hợp với đặc điểm của từng DN. Trong khi đó, VAS lại mang tính bắt buộc rất cao.

Thứ tư: VAS đến nay chưa đề cập đến một số đối tượng và giao dịch có liên quan trực tiếp đến việc ghi nhận và trình bày các khoản mục trên BCTC đã phát sinh trong nền kinh tế. Như các công cụ tài chính (IAS 32, IAS 39, IFRS 7, IFRS 9), suy giảm giá trị tài sản (IAS 36), đo lường giá trị hợp lý (IFRS 13), chưa ban hành các chuẩn mực kế toán trong lĩnh vực nông nghiệp (IAS 41).

Thứ năm: Trong BCTC theo VAS lãi hoạt động kinh doanh bao gồm cả hoạt động tài chính. Trong khi đó, theo IAS/IFRS thì lãi lỗ từ hoạt động kinh doanh thông thường của DN không bao gồm các khoản thu nhập và chi phí tài chính.

3. Khó khăn khi áp dụng IFRS đối với các DN niêm yết Việt Nam

Thực tiễn việc áp dụng IFRS ở Việt Nam với trường hợp cụ thể của Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN). Theo cam kết tại các hợp đồng tín dụng với Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển châu á, hàng năm EVN lập BCTC theo IFRS trên cơ sở chuyển đổi từ BCTC theo VAS đã được kiểm toán. Như vậy, EVN đồng thời thực hiện 2 BCTC, một BCTC lập theo VAS và một BCTC lập theo IFRS. Do có sự khác biệt lớn giữa VAS và IFRS, nên báo cáo chuyển đổi sang IFRS của EVN hiện nay chưa hoàn toàn tuân thủ theo IFRS. Việc lập BCTC theo IFRS ngoài việc giúp EVN tăng tính minh bạch về tài chính, còn là mấu chốt quan trọng để nâng cao khả năng huy động vốn và thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, mở rộng cơ hội hợp tác kinh doanh, hội nhập quốc tế.

Triển khai việc áp dụng IFRS cũng là cơ hội giúp EVN nâng cao chất lượng quản trị và thông tin. Bởi vì, phương pháp hạch toán các giao dịch theo IFRS thông thường dựa vào “Bản chất hơn hình thức”, do đó để lập và trình bày BCTC theo IFRS giúp nhà quản trị có trách nhiệm cao hơn cung cấp thông tin minh bạch, công khai, dễ so sánh hơn. Qua quá trình thực hiện việc chuyển đổi BCTC từ VAS sang IFRS, EVN phần nào đã có những hiểu biết nhất định về IFRS, song trong điều kiện hiện nay EVN còn những hạn chế về năng lực nội tại và thách thức của bối cảnh, việc triển khai áp dụng IFRS của EVN hiện nay vẫn còn gặp không ít khó khăn.

Trên thực tế, IFRS được xây dựng và ban hành áp dụng cho các nền kinh tế phát triển và thông thường là các nước áp dụng theo hình thức luật chung, khi mà các yếu tố thị trường đã phát triển đồng bộ, có thị trường thuận lợi cho định giá các loại tài sản theo giá thị trường. Còn đối với Việt Nam, các yếu tố này lại chưa biểu hiện đầy đủ ở các quốc gia đang phát triển và Việt Nam là nước áp dụng theo hình thức điển luật.

Bên cạnh đó, thị trường vốn của Việt Nam cũng mới được hình thành và vẫn chưa đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế, mới chỉ trong phạm vi quốc gia và chưa liên thông với thị trường vốn trên thế giới). Hơn nữa, IFRS là các hướng dẫn mang tính nguyên tắc nhiều hơn là hướng dẫn về cách hạch toán. Nên đối với EVN còn rất nhiều khó khăn.

EVN đang thực hiện 2 hệ thống BCTC theo VAS và IFRS. BCTC của EVN hiện nay, phản ánh các nghiệp vụ đặc thù phát sinh từ lâu được ghi nhận khác biệt với IFRS (đánh giá lại tài sản cố định trong quá trình cổ phần hóa các DN hoặc theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, hạch toán chi phí lãi vay của các Hiệp định ưu đãi lãi suất tài trợ cho xây dựng công trình điện, cổ tức nhận bằng cổ phiếu…). Tuy nhiên, các nghiệp vụ này lại ảnh hưởng rất lớn đến tình hình tài chính của EVN qua các năm, do vậy khi áp dụng IFRS trong năm đầu tiên đòi hỏi các đơn vị của Tập đoàn phải dành nhiều thời gian và nhân lực để xử lý công việc này. Việc lập BCTC tuân thủ IFRS, cũng đòi hỏi EVN phải đầu tư nguồn vốn lớn để xây dựng hệ thống công nghệ thông tin hiện đại. Một hệ thống công nghệ thông tin hiện đại mới, có thể đáp ứng các yêu cầu về ghi nhận /xử lý thông tin cho việc lập BCTC và các thuyết minh thống nhất giữa tất cả các đơn vị trong Tập đoàn; Đáp ứng các yêu cầu về tổng hợp thông tin phục vụ cho mục đích hạch toán kế toán và trình bày thông tin; Đáp ứng việc xác định giá trị hợp lý của hàng tồn kho /tài sản cố định /phải thu /phải trả,…; Xác định tổn thất tài sản cố định; Thông tin về giá trị các khoản đầu tư tài chính; Thông tin về chi phí hoàn nguyên môi trường,...

Việc áp dụng IFRS, sẽ giúp Việt Nam đi đúng hướng với tầm nhìn Việt Nam 2035. Đặc biệt, trong khi Việt Nam hội nhập sâu vào nền kinh tế khu vực, tham gia Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP), Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC). Khi BCTC của các DN lập theo IFRS đem lại những lợi ích lớn nó tạo ra cho DN những cơ hội tiếp cận nguồn vốn, duy trì khả năng cạnh tranh, thông tin BCTC minh bạch hơn, dễ so sánh hơn, tin cậy hơn. Song nó cũng đặt ra không ít những thách thức nhất định, cụ thể:

Một là, Việc áp dụng IFRS ghi nhận giá trị tài sản của DN theo giá trị hợp lý trong khi điều kiện nền kinh tế Việt Nam là một nước đang phát triển, nên các cơ sở dữ liệu để đánh giá, ghi nhận giá trị tài sản của DN theo giá trị hợp lý trở nên khó khăn, thiếu cơ sở đối chiếu.

Hai là, Một số chính sách, cơ chế, hướng dẫn và khung pháp lý chưa hoàn thiện, do vậy các DN thiếu căn cứ pháp lý để lập BCTC theo IFRS như việc ghi nhận tổn thất tài sản, công cụ tài chính phái sinh và một số kỹ thuật để thực hiện xác định tổn thất lợi thế thương mại, … rất phức tạp sẽ gây ra không ít khó khăn cho DN.

Ba là, Khi áp dụng IFRS đòi hỏi hệ thống kết nối thông tin và phần mềm kế toán của DN hiện đại đáp ứng được yêu cầu cập nhật thông tin nhanh chóng và kịp thời, nên các DN phải bỏ ra một khoản chi phí ban đầu rất lớn. Đồng thời, phải bỏ ra một khoản chi phí để đào tạo lại các nhân viên kế toán và điều này không phải DN nào cũng có thể đáp ứng được ngay.

Bốn là, Trình độ năng lực chuyên môn và ngoại ngữ của nhân viên kế toán nhiều DN chưa thể đáp ứng để áp dụng ngay IAS /IFRS. Nhất là khi áp dụng theo IFRS thì sự linh hoạt, sử dụng nhiều ước tính kế toán, sự không chắc chắn rất cao trong khi đó nguồn lực lao động kế toán ở Việt Nam lại bị ảnh hưởng bởi văn hóa khuôn mẫu, nguyên tắc, theo hướng dẫn vốn rất thận trọng. Bên cạnh đó, IFRS rất phức tạp thậm chí kể cả các chuyên gia trong lĩnh vực kế toán tài chính.

Năm là, Việc áp dụng IFRS đòi hỏi cả nhà quản lý và người sử dụng BCTC, các nhà đầu tư cần được đào tạo và có trình độ thích hợp để có thể đọc và hiểu các thông tin trên BCTC từ đó đưa ra các quyết định kinh tế phù hợp.      

Sáu là, Các cơ sở đào tạo tại Việt Nam hiện chưa có chương trình đào tạo về IFRS một cách hệ thống. Hiện mới có một số tổ chức nghề nghiệp quốc tế như Hiệp hội Kế toán Anh Quốc (ACCA), Hiệp hội Kế toán công chứng Australia (CPA Australia), Viện Kế toán Công chứng Anh và xứ Wales có chương trình đào tạo cho một số học viên và một số công ty kiểm toán như các công ty trong nhóm Big 4 mới chỉ đào tạo cho nhân viên trong công ty. Dẫn đến nguồn lực lao động kế toán am hiểu về IFRS hiện tại đối với các DN đang là còn thiếu và hạn chế về sự am hiểu IFRS.

Bảy là, Đối với các cán bộ cơ quan thuế cũng chưa nắm rõ về IFRS nên khi làm theo IFRS dẫn đến chênh lệch giữa thu nhập chịu thuế và lợi nhuận kế toán điều đó sẽ gây ra tranh luận cho cả DN và cơ quan thuế. Như thực trạng đối với EVN quyết toán Thuế của EVN được lập căn cứ trên BCTC theo VAS và điều chỉnh các khác biệt về quy định của Luật Thuế. Tuy nhiên, việc lập BCTC theo IFRS sẽ phát sinh rất nhiều chênh lệch giữa BCTC và Báo cáo Thuế. Nhất là các nghiệp vụ phát sinh liên quan đến khấu hao tài sản cố định, chênh lệch khấu hao do điều chỉnh lại lãi vay vốn hóa của các TSCĐ sử dụng nguồn vốn vay ưu đãi Xử lý chênh lệch tỷ giá chi tiết theo công trình.

Tám là, Các chuẩn mực của IAS /IFRS vẫn trong giai đoạn cập nhật, sửa đổi, bổ sung do đó đòi hỏi một khoản chi phí không nhỏ để theo dõi, biên soạn, ban hành, hướng dẫn áp dụng các chuẩn mực mới. Đặc biệt là, khi trình độ ngoại ngữ của đội ngũ kế toán hạn chế sẽ khiến cho DN gặp không ít khó khăn.

Tóm lại, Việc áp dụng IFRS đang mở ra một thời kỳ mới làm thay đổi cách ghi nhận, đo lường và trình bày các yếu tố trên BCTC của DN, tạo ra một ngôn ngữ chung đối với lĩnh vực kế toán, tạo cơ hội cho sự phát triển của thị trường vốn, tăng tính minh bạch của BCTC bảo vệ lợi ích của các cổ đông, giảm sự mất cân xứng về thông tin giữa nhà quản trị và cổ đông. Tuy nhiên, việc áp dụng IFRS là một thách thức về mức độ phát triển của thị trường, trình độ năng lực chuyên môn, ngoại ngữ đối với các nhân viên kế toán, kiểm toán, các nhà đầu tư và cả các nhà quản lý. Nó đòi hỏi sự nỗ lực không nhỏ từ phía các DN và những người làm công tác kế toán. Đồng thời là, sự phối hợp đồng bộ của chính phủ, các cơ quan, ban ngành, nhằm điều chỉnh môi trường kinh tế, pháp luật đáp ứng hội nhập kinh tế quốc tế, các cơ sở đào tạo xây dựng chương trình đào tạo IFRS một cách có hệ thống./.

Tài liệu tham khảo

1. Bộ Tài chính (2014), Thông tư số 200/2014/TT-BTC về việc sửa đổi chế độ kế toán ban hành theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BTC, ban hành ngày 22/12/2014 của Bộ trưởng Bộ Tài chính, Hà Nội.

2. Bộ Tài chính. (2015). Chế độ kế toán DN. NXB Tài chính.

3. Hệ thống chuẩn mực quốc tế (IAS).

4. Hệ thống chuẩn mực kế toán Việt Nam (VAS).

5. Nguyễn Minh Phương - Nguyễn Thị Đông (2014), Giáo trình Kế toán Quốc tế, NXB Thống kê.

6. Ths. Nguyễn Thị Kim Chung, Chuẩn mực BCTC quốc tế và kinh nghiệm cho Việt Nam, Tạp chí Tài chính kỳ 2 tháng 3/2016.

Theo Tạp chí Kế toán và Kiểm toán của Hội Kế toán và Kiểm toán Việt Nam (VAA) NCS. Trần Thị Phương Mai ** Trường Cao đẳng Công nghiệp Quốc Phòng

 

Xem thêm
Các nhân tố ảnh hưởng tới tổ chức công tác kế toán tại các doanh nghiệp ngành xây dựng trên địa bàn thành phố Biên Hoà - tỉnh Đồng Nai

Các nhân tố ảnh hưởng tới tổ chức công tác kế toán tại các doanh nghiệp ngành xây dựng trên địa bàn thành phố Biên Hoà - tỉnh Đồng Nai

Trao đổi về một số các đặc điểm, rủi ro của hóa đơn điện tử và khuyến nghị đối với văn bản pháp lý liên quan

Trao đổi về một số các đặc điểm, rủi ro của hóa đơn điện tử và khuyến nghị đối với văn bản pháp lý liên quan

Nâng cao giá trị và chất lượng thông tin của Báo cáo tài chính

Nâng cao giá trị và chất lượng thông tin của Báo cáo tài chính

Xu hướng nghiên cứu về minh bạch thông tin kế toán trong khu vực công trên thế giới

Xu hướng nghiên cứu về minh bạch thông tin kế toán trong khu vực công trên thế giới

Xu hướng nghiên cứu về minh bạch thông tin kế toán trong khu vực công trên thế giới

Xu hướng nghiên cứu về minh bạch thông tin kế toán trong khu vực công trên thế giới

Đối tác
HAA
ACCA
CPA AUSTRALIA
ICAEW
Quảng cáo
PACE
Fast Accounting Online
CIMA
RSM DTL Auditing – Member RSM network
Tổng công ty du lịch Sài Gòn | Saigontourist
Smart Train
CÔNG TY TNHH KIỂM TOÁN & TƯ VẤN CHUẨN VIỆT
Đại Học Ngân Hàng - Thành Phố Hồ Chí Minh
Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh